Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Ngược
dòng Thời gian
Chủ đề:
Chiến Tranh VN
Tác giả:
Trần Trung Chính
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Nguồn: ỦY BAN
TRUY TỐ TỘI ÁC ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
TRUNG TÂM ĐIỀU
HỢP TRUNG ƯƠNG
P.O.BOX 6147
FULLERTON,CA 92834, USA
Orange county, Ca 1/1/2020
KÍNH GỞI:
–Đồng bào
Quốc nội và Hải ngoại,
–Quý chiến Hữu QLVNCH/CSQG Việt Nam
Cộng Hòa.
XIN PHỔ BIẾN RỘNG RÃI
Nhân
dịp lễ Thanksgiving vừa qua (tháng 11/2019), Việt Nam Nhật Báo
tại San José đã cho đăng tải Tài Liệu Về Tổ Chức Tình Báo Của
Việt Cộng Tại Miền Nam (Nam Việt Nam = Việt Nam Cộng Hòa). Tác
giả bài viết này lấy tên là NGUYỄN THƯỢNG VŨ, người viết suy
đoán rằng đây là bí danh của một viên chức trung cấp của cơ quan
phản gíán của VNCH, bí danh này trùng tên với một nhân vật có
thực tại San José, đó là Bác sĩ Nguyễn Thượng Vũ. Vì không thấy
chức vị của tác giả viết Tài Liệu Về Tổ Chức Tình Báo của Việt
Cộng nên người viết suy đoán rằng đó chỉ là bí danh trùng với
tên của Bác sĩ Nguyễn Thượng Vũ.
Dang Dở (hay dở dang) là tính từ
(adjective) có nghĩa là đang còn chưa xong, chưa trọn vẹn (nhưng
phải dừng, phải bỏ), thí dụ: tác phẩm viết dở dang, mối tình
dang dở. Thời tiền chiến, một nhà thơ (hình như là Hồ Dzếnh) có
làm 2 câu thơ mà bọn sinh viên học sinh chúng tôi thuộc lòng:
Tình chỉ đẹp khi còn dang dở
Đời mất vui khi đã vẹn câu thề.
Nhận thấy rằng cả Việt Cộng cũng như
tác giả Nguyễn Thượng Vũ đều tổng kết thành quả tình báo của
phía Cộng sản cũng như tường thuật lại thành quả của ngành phản
gián VNCH đều chỉ là những “tổng kết dang dở” và “tường thuật
dang dở”.
Dang Dở thứ nhất: phía Việt Cộng cho rằng Đại tá Phạm Ngọc Thảo
“trá hàng”, ông Phạm Ngọc Thảo nhận chỉ thị của Đảng CSVN ra làm
việc với anh em ông Diệm – Nhu để tạo thời cơ cho Đảng CSVN
“thống nhất đất nước”. Phía VC cũng cho rằng ông Ngô Đình Nhu và
Bác sĩ Trần Kim Tuyến tin dùng ông Phạm Ngọc Thảo vì tin theo
lời giới thiệu tốt của các linh mục Lê Hữu Từ, Hoàng Quỳnh, Phạm
Ngọc Chi...
Dang Dở thứ hai: phía VC đánh giá quá thấp tài năng phán đoán
của 2 ông trùm “chính trị” Ngô Đình Nhu và ông trùm “tình báo”
Trần Kim Tuyến. Ông Phạm Ngọc Thảo được “tin cậy” vì chính ông
đã cung cấp tin tức của Lê Duẩn để Cảnh Sát của Đại tá Nguyễn
Văn Y suýt bắt được Lê Duẩn tại một căn nhà ở đường Vườn Chuối
hồi 1957. Bác sĩ Trần Kim Tuyến phân trần với ông Thảo rằng Sở
Nghiên Cứu Chính Trị của ông không có lính thuộc cấp nên phải
nhờ Cảnh Sát. Mà Cảnh Sát không biết rằng họ phải bắt giữ một
nhân vật quan trọng nên lề mề về thủ tục hành chánh khiến Lê
Duẩn “lọt lưới”. Cả Bác sĩ Trần Kim Tuyến và ông Phạm Ngọc Thảo
đều lấy làm tiếc về vụ này, vì nếu Lê Duẩn bị bắt thì đã không
có Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam!
Dang Dở thứ ba: tất cả báo cáo thành
tích của VC cũng như bản tường thuật của bí danh Nguyễn Thượng
Vũ không hề đề cập đến sự hiện hữu và thành tích cũng như thất
bại của Bác sĩ Trần Kim Tuyến và Sở Nghiên Cứu Chính Trị. Người
viết khẳng định là phía VC không hề biết những việc làm của Cơ
Quan Trung Ương Tình Báo VNCH mà họ chỉ biết qua Cơ Quan Phản
Gián (tức là Khối CSĐB trong Tổng Nha Cảnh Sát mà thôi).
Dang Dở thứ tư: Đại tá Phạm Ngọc Thảo
được CIA đưa sang Hoa Kỳ du học [tại] Trường Chỉ Huy Tham Mưu từ
trước khi cuộc đảo chính 1 tháng 11 năm 1963, đặc biệt là ông
đưa cả gia đình gồm cả vợ và các con đi theo. Sự kiện đặc biệt
này khiến người viết suy đoán rằng CIA đã sắp xếp để Đại tá Phạm
Ngọc Thảo “giữ một vai trò mới” trong chính trường VNCH sau khi
Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Cố Vấn Ngô Đình Nhu bị giết.
Dang Dở thứ năm: Ngày 30 tháng giêng
năm 1964, Trung tướng Nguyễn Khánh, đương kim Tư Lệnh Quân Đoàn
2 và Quân Khu 2 làm cuộc “đảo chánh” lật đổ Trung tướng Dương
Văn Minh. Tướng Nguyễn Khánh gọi công việc ông thực hiện là
“Cuộc Chỉnh Lý”. Tuy vậy, lịch sử và thực tế cho thấy rằng người
thực sự thực hiện “Cuộc Chỉnh Lý” này là Trung tướng Trần Thiện
Khiêm, đương kim Tư Lệnh Quân Đoàn 3 và Quân Khu 3. Vì không có
bất cứ đơn vị bộ binh nào của Quân Đoàn 2 cũng như Quân Đoàn 3
tham dự, mà chỉ có các tiểu đoàn Nhảy Dù của Đại tá Cao Văn Viên
di chuyển và trấn đóng các địa điểm trọng yếu trên địa bàn Biệt
Khu Thủ Đô mà thôi.
Dang Dở thứ sáu: Sau khi Trung tướng
Nguyễn Khánh nắm quyền tại Sài Gòn, Đại tá Phạm Ngọc Thảo được
tình báo Hoa Kỳ sắp xếp đưa ông trở lại Sài Gòn một mình (gia
đình vẫn ở lại Hoa Kỳ). Chuyến trở về của ông được Tùy viên Quân
Sự của Tòa Đại Sứ VNCH tại Washington, D.C. báo cáo cho các giới
chức có thẩm quyền của chính phủ VNCH tại Sài Gòn. “Người ta”
đón chờ Đại tá Phạm Ngọc Thảo tại phi trường Tân Sơn Nhứt...
Dang Dở thứ bảy: CIA loan báo việc
“đón chờ” này, nên khi phi cơ quá cảnh ở phi trường Hongkong,
Đại tá Phạm Ngọc Thảo xuống phi trường Hongkong, rồi chờ hơn một
tuần lễ sau mới dùng một chiếc phi cơ khác bay vào Sài Gòn. Đại
tá Phạm Ngọc Thảo không nắm giữ một chức vụ nào trong chính phủ
VNCH cũng như không nắm chức vụ chỉ huy một đại đơn vị nào của
Quân Đội VNCH, vậy mà ông tổ chức “đảo chánh”, “biểu dương lực
lượng” hà rầm trong năm 1964 và 1965. Cái gì làm cho Đại tá Phạm
Ngọc Thảo có power mạnh như vậy?
Dang Dở thứ tám: ngày 16 tháng 2 năm
1965, Bác sĩ Phan Huy Quát (thủ lãnh của nhóm Đại Việt Quan Lại)
nhận chức Thủ Tướng Chính Phủ và thành lập nội các. Ba ngày sau
(ngày 19 tháng 2 năm 1965), Trung tướng Dương Văn Đức và Thiếu
tướng Lâm Văn Phát đem binh sĩ từ Quân Đoàn 4 về Sài Gòn để gây
áp lực với Bác sĩ Phan Huy Quát “tống xuất” Đại tướng Nguyễn
Khánh ra ngoại quốc làm Đại Sứ Lưu Động. Yêu sách được thỏa mãn,
2 ông tướng lui binh khỏi Sài Gòn và Thiếu tướng Lâm Văn Phát tự
gọi công việc của ông là “Biểu Dương Lực Lượng”! Sau khi 2 ông
tướng lui binh khỏi Sài Gòn, Trung tá Phạm Văn Liễu, đương kim
Tổng Giám Đốc CSQG tiến cử Đại tá Nguyễn Ngọc Loan làm Giám Đốc
Nha An Ninh Quân Đội (thay thế Đại tá Cao Văn Chính) và kiêm
nhiệm chức Giám Đốc Trung Ương Tình Báo (thay thế Trung tá Lê
Văn Nhiều).
Lý do: cả Thủ Tướng Phan Huy Quát và Trung tá Phạm Văn Liễu –
TGĐ/CSQG đều cho rằng Đại tá Cao văn Chính và Trung tá Lê Văn
Nhiều là đàn em của Đại tướng Nguyễn Khánh và đã đứng sau các
xáo trộn chính trị và quân sự trong năm 1964 và 1965.
Dang Dở thứ chín: Khi
Đại tá Phạm Ngọc Thảo bị bắt ở Hố Nai – Biên Hòa thì Đại tá
Nguyễn Ngọc Loan chưa nắm giữ TGĐ/CSQG (tháng 4/1966 Đại tá Phạm
Văn Liễu từ chức TGĐ/CSQG, ông bàn giao chức TGĐ/CSQG cho Đại tá
Nguyễn Ngọc Loan), Đại tá Nguyễn Ngọc Loan coi hồ sơ của Đại tá
Phạm Ngọc Thảo từ Nha An Ninh Quân Đội và từ cơ quan Trung Ương
Tình Báo VNCH, nhận thấy nhân vật này quá “nguy hiểm” nên ông ra
lệnh “trừ khử”. Không có y chứng của Bác sĩ Luật Y nào xác nhận
tình trạng thi thể của Đại tá Phạm Ngọc Thảo, nên có tin đồn là
Đại tá Thảo bị bắn trên phi cơ trực thăng áp giải ông từ Biên
Hòa về Sài Gòn cũng như có tin đồn là Thiếu tá Hùng Sùi “bóp
giái” cho đến chết...
Dang Dở thứ mười: sau
khi Đại tá Phạm Ngọc Thảo bị “thanh toán”, vợ con của Đại tá
Thảo vẫn ở lại Hoa Kỳ, CIA giúp đỡ bà Thảo bằng cách trợ giúp bà
mở tiệm Laundromat để sinh nhai, chính trong bài viết Tổ Chức
Tình Báo Của VC Tại Miền Nam, bí danh Nguyễn Thượng Vũ cũng xác
nhận con trai của Đại tá Phạm Ngọc Thảo đã trở thành Bác sĩ và
hành nghề tại Orange County. Thưở còn sinh thời, nhà báo Lữ
Giang (tức Thẩm Phán Nguyễn Cần) có cho biết là bà Đại tá Thảo
đã nghỉ hưu và cư ngụ tại vùng lân cận của thành phố San Clement
(giữa Orange County và San Diego). Bà Đại tá Phạm Ngọc Thảo cũng
cho ký giả Lữ Giang biết là bà có liên lạc với Bác sĩ Trần Kim
Tuyến để nhờ Bác sĩ Tuyến minh oan cho Đại tá Thảo về việc Bác
sĩ Tuyến biết chắc Đại tá Thảo là người quốc gia thật sự chứ
không phải là “trá hàng” như bọn VC đã dựng chuyện VÁN BÀI LẬT
NGỬA (do Trần Bạch Đằng tưởng tượng).
Ghi chú: Bác sĩ Trần Kim Tuyến là người
“sống để bụng, chết mang theo”, chưa bao giờ người ta thấy ông
lên tiếng hay đính chính những việc ông làm trong thời đệ nhất
Cộng Hòa, cho nên lời yêu cầu của bà Đại tá Phạm Ngọc Thảo không
được Bác sĩ Trần Kim Tuyến đáp ứng.
Chiến tranh Việt Nam (giữa VNCH và
VNDCCH) có thể tính từ 1955 đến 1975, coi như trọn vẹn 20 năm,
phía VNCH tổn thất khoảng gần 300,000 binh sĩ tử trận (người
viết căn cứ trên báo cáo của Nha Quân Phí – Bộ Quốc Phòng VNCH,
đây là số tiền trả cho thân nhân của binh sĩ tử trận) và khoảng
gần 400,000 thương phế binh (người viết căn cứ trên báo cáo của
Bộ Cựu Chiến Binh – VNCH).
Sau 30 tháng 4 năm 1975, nhận thấy
phía VNDCCH không có thương phế binh nên người viết phỏng đoán
VNDCCH có từ 700,000 đến 800,000 binh sĩ tử trận. Nhưng theo bà
Dương Thu Hương, con số binh sĩ miền Bắc tử trận tối thiểu cũng
đã lên tới 3 triệu. Con số 800,000 binh sĩ tử trận là tính theo
“trực tiếp giao tranh” của lính Bắc Việt với Quân Lực VNCH và
quân lực Hoa Kỳ. Như vậy con số sai biệt khoảng 2.2 triệu ở đâu?
Câu trả lời: binh sĩ Bắc Việt chết tới 2.2 triệu vì các trận mưa
bom do pháo đài bay B–52 oanh tạc từ 1965 đến 1972.
Người viết có thể khẳng định là nhóm
lãnh đạo của VC quá dốt về sự hiện đại của quân lực Hoa Kỳ nên
số tổn thất nhân mạng đã quá cao (12% của 25 triệu dân). Kiến
thức và kinh nghiệm của ban lãnh đạo VC là những kinh nghiệm từ
chiến trường Cao Ly 1950–1953 và chiến trường Bắc Việt
1950–1954. Đế quốc Pháp có những tướng giỏi như De Lattre de
Tassigni, Raoul Salan, Navarre... nhưng nước Pháp không có “nội
lực” kinh tế, không đủ nhân lực (binh sĩ chiến đấu phải lấy từ
các thuộc địa như Maroc, Algerie, Tunisie, Senegal...), không đủ
vũ khí và quân trang quân dụng (chính phủ Pháp phải cầu viện Hoa
Kỳ viện trợ quân sự), cho nên chuyện rút lui khỏi Đông Dương là
điều tất yếu phải xảy ra.
Mặc dù được Liên Sô và Trung Cộng
trang bị vũ khí tối tân hơn trang bị của Quân Đội VNCH như
AK–47, B–40, B–41, súng cối 82ly, thượng liên 12 ly 8... nhưng
các tướng lãnh của BV không biết một tý gì về hàng rào điện tử,
về kỹ thuật trải thảm của B–52, các pháo binh của các chiến hạm
hải quân Hoa Kỳ chạy cận duyên bờ biển Việt nam có thể yểm trợ
cho TQLC và bộ binh hành quân trên đất liền...
Khoa học thực nghiệm là khoa học dựa
trên thử nghiệm và thí nghiệm với kết quả ghi nhận ĐÚNG và SAI.
Từ 1964, mỗi năm BV phải chuyển số binh sĩ từ Bắc vào Nam khoảng
hơn 200,000 người, chỉ thấy binh sĩ vào Nam mà không thấy binh
sĩ trở ra Bắc vì phần lớn đã bị mưa bom tiêu diệt, số còn lại
không đủ thắng các đơn vị của VNCH (dù được trang bị kém hơn).
Vấn đề người viết nêu ra là từ 1964 đến 1968, cách tấn công miền
Nam không có hiệu quả mà các lãnh đạo của BV không chịu (hay
không biết) xoay sở chuyển qua các phương cách khác.
Ngay cả trận Mậu Thân 1968, dù đánh
lén và huy động toàn lực, BV cũng không đạt được thành quả quân
sự nào. Vậy mà cứ xin thêm quân viện và xua thêm người vào Nam,
đó là lý do chỉ có 12 năm chiến đấu mà binh sĩ tử thương lên tới
3 triệu. Nên nhớ rằng trong trận Cao Ly, Thống Chế Bành Đức Hoài
kéo 1 triệu chí nguyện quân từ Trung Hoa sang Cao Ly, hỏa lực
quy ước Hoa Kỳ cũng đã tiêu diệt 400,000 quân Trung Hoa (thời
điểm 1953, Hoa Kỳ chưa có B–52, chưa có kỹ thuật thả bom theo ô
vuông...)
Kiểu truyền thông cánh tả cứ bốc thơm VC rằng “thua trên chiến
trường, nhưng thắng trên màn ảnh truyền hình của TV” là cách HK
tìm đường rút ra khỏi VN sau khi dàn hơn ½ quân số của quân đội
HK vào VN đã quá tốn kém. Tại sao các lãnh đạo của BV cứ dàn
dựng những Cụm A.22 với những nhân vật như Mười Hương, Vũ Ngọc
Nhạ, Huỳnh Văn Trọng, Phạm Xuân Ẩn, Lê Hữu Thúy, Đinh Văn Đệ...
cho dù có chút thành công như xem được tài liệu mật của Tổng
Thống Thiệu, hay của Đại tướng Cao Văn Viên đi chăng nữa thì
cũng không làm giảm được bao nhiêu số thiệt hại nhân mạng của
binh sĩ BV.
Hàng rào điện tử Mac Namara thực chất chỉ là những sensors ghi
nhận số người đi qua một vùng nào đó, những ghi nhận như là số
lượng người, tốc độ di chuyển và hướng đi tới... tất cả các dữ
liệu đó được tự động chuyển vào căn cứ dữ liệu (data base), một
số chuyên viên sẽ sử dụng căn cứ dữ liệu để khai thác dữ liệu.
Trung Tâm Khai Thác Dữ Liệu mới chuyển các phân tích và tổng hợp
dữ liệu cho cơ quan MACV tại Sài Gòn. Các tướng lãnh trách nhiệm
mới quyết định mở những cuộc hành quân oanh tạc tiêu diệt quân
địch. Vũ khí giết người này mới đúng là “vũ khí giết người hàng
loạt” thì ban lãnh đạo của VC không lo “hóa giải”, mà cứ đi lo
làm biết bao chuyện tầm phào khác.
Dẫn chứng: đọc những
chuyện của nhà văn Xuân Vũ như ĐƯỜNG ĐI KHÔNG ĐẾN, như 2000 NGÀY
ĐÊM TỬ THỦ CỦ CHI thì mới rõ là toàn thể Ban Lãnh Đạo của BCT
Đảng CSVN không biết một tí gì về “trải thảm bom” bằng B–52 nên
thay vì nói 3 triệu binh sĩ BV “hy sinh tánh mạng” thì chúng ta
nên sửa lại “3 triệu binh sĩ BV bị toi mạng vì sự ngu dốt của
Ban Lãnh Đạo Đảng CSVN”!
NỬA VỜI cũng là tính
từ (adjective), có nghĩa là “có tính chất nửa chừng, không dứt
khoát, không triệt để”. Thí dụ: biện pháp nửa vời, thái độ nửa
vời. Người viết gọi ban lãnh đạo của VC chỉ làm công tác tình
báo xâm nhập nửa vời vì họ đã không có biện pháp hóa giải sự
hoạt động của hàng rào điện tử cũng như giải quyết được phương
pháp thả bom trải thảm của các pháo đài bay B–52 (là 2 phương
tiện gây tổn thất nhân mạng cho các binh sĩ BV nhiều nhất).
Thiếu tướng Nguyễn Khăc Bình góp ý là
“chuyện tình báo là chuyện xảy ra giữa âm binh và phù thủy, ai
cao tay ấn hơn là phía bên kia sẽ ôm đầu máu”. Chính ông đã
nhiều lần đòi bắt giữ Phạm Xuân Ẩn, nhưng phía HK ngăn cản: tình
báo HK đã sử dụng Phạm Xuân Ẩn như là một hộp thư để chuyển giao
những tin tức mà HK cần cho VC biết.
Trường hợp thượng sĩ Minh, thư ký của
Đại tướng Cao Văn Viên cũng tương tự như vậy: HK muốn cho VC
biết những kế hoạch của Đại tướng Cao Văn Viên đối phó với cuộc
tấn công toàn diện của 16 sư đoàn quân BV (mà không có quân viện
của Hoa Kỳ).
Cả 2 nguồn tin tức từ phía Phạm Xuân Ẩn và từ phía thượng sĩ
Minh chuyển giao giúp cho VC mau mau dốc hết toàn lực chiếm trọn
VNCH để chính phủ HK lấy cớ là phía CSVN vi phạm hiệp định Paris
1973 nên không viện trợ 3 tỷ dollars cho VN như khoản 21B của
Hiệp Định Paris quy định (thực tế, Hoa Kỳ tiết kiệm được 3.7 tỷ
dollars, đó là người viết tính thêm 700 triệu dollars mà Tổng
Thống Thiệu xin Quốc Hội HK viện trợ vào đầu năm 1975, nhưng
chính phủ HK không tháo khoán số ngân khoản này).
Sau 30 tháng 4 năm 1975, VC phong cho
ông Phạm Xuân Ẩn cấp bậc Đại tá Tình Báo rồi vinh thăng lên cấp
bậc Thiếu tướng Tình Báo nhưng không cho ông làm gì cả khiến ông
bất mãn. Còn thượng sĩ Minh được VC công nhận là anh hùng của
lực lượng vũ trang Quân Đội Nhân Dân VN với cấp bậc Đại tá!!!
Ban lãnh đạo của VC ra lệnh cho các
văn nô “tiểu thuyết hóa” các thành tich tình báo của các nhân
viên của họ mà không hề biết rằng những điệp viên Cộng sản chỉ
thu thập được những tin tức tình báo mà phía Hoa Kỳ muốn nhả ra.
Chứng cớ là các dữ kiện tình báo của Bác sĩ Trần Kim Tuyến và
của Sở Nghiên Cứu Chính Trị thời Đệ Nhất Cộng Hòa cũng như các
dữ kiện và tài liệu của Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo dưới thời
Thiếu tướng Nguyễn Khăc Bình làm Đặc Ủy Trưởng hoàn toàn biến
mất. Ngay cả Nha Văn Khố của Khối Cảnh Sát Đặc Biệt cũng bị
thiêu hủy để bảo mật, hay hoặc các văn kiện bí mật của Phủ Tướng
VNCH dưới sự lãnh đạo của Đại tướng Trần Thiện Khiêm, cũng biến
mất. Đó là nói về Việt Nam, còn nói về phía Hoa Kỳ như các văn
kiện bí mật thời Đại Sứ Bunker và Đại Sứ Graham Martin, hay các
văn kiện tình báo dưới thời Williams Colby và Polgar thì cũng
chẳng có dấu vết còn sót lại.
Chiến tranh Việt Nam 1955–1975 thực sự
bắt đầu khi Hồ Chí Minh và Đảng CSVN khai sinh ra Mặt Trận Giải
Phóng Miền Nam tại Hà Nội năm 1960: Cộng sản BV cho thành lập
Đoàn 66 để mở đường xa lộ Trường Sơn (mà chúng gọi là Đường Mòn
Hồ Chí Minh). Phía Hoa Kỳ tham chiến thực sự tại chiến trường
Nam Việt Nam vào tháng 3 năm 1965 dưới thời chính phủ của Thủ
Tướng Phan Huy Quát sau khi TQLC Hoa Kỳ đổ bộ vào căn cứ Chu
Lai. Cuộc chiến tại VN là một cuộc chiến tranh kỳ quái vì kẻ gây
chiến là Bắc Việt đem đại quân vào miền Nam VN mà không tuyên
chiến với VNCH, bọn CSBV khoác dưới chiêu bài “nhân dân miền Nam
nổi dậy”. Phía Hoa Kỳ đem 550,000 quân vào chiến trường VN do
lời yêu cầu chính thức của chính phủ VNCH (văn thư yêu cầu này
do đích tay Thủ Tướng Phan Huy Quát ký tên), phía đồng minh của
Hoa Kỳ và VNCH còn có 50 ngàn binh sĩ chiến đấu của Đại Hàn, 12
ngàn binh sĩ chiến đấu của Thái Lan, 8 ngàn binh sĩ chiến đấu
của liên quân Australia – New Zeland, 2 ngàn binh sĩ không chiến
đấu của Philippines...
Từ trước đến nay, người viết chưa thấy
nhà nghiên cứu và các sử gia đặt vấn đề là chính phủ HK điều
động một số lượng binh sĩ đông đảo còn hơn cả số lượng binh sĩ
Hoa Kỳ tham chiến tại Âu Châu thời đệ nhị thế chiến, đông đảo
hơn số lượng binh sĩ Hoa Kỳ tham chiến tại Á Châu thời chiến
tranh với Nhật Bản, đông đảo hơn số lượng binh sĩ Hoa Kỳ tham
chiến tại Triều Tiên khi Hoa Kỳ có chiến tranh với Bắc Hàn và
Trung Cộng... Vấn đề là liệu chính phủ Hoa Kỳ đã có sẵn giải
pháp dự liệu để chấm dứt chiến tranh Việt Nam hay không?
Chính phủ Hoa Kỳ không bao giờ có thái
độ được chăng hay chớ như các chính phủ của các quốc gia nhỏ bé.
Theo sự suy đoán chủ quan của cá nhân người viết bài này, chắc
chắn là chính phủ Hoa Kỳ đã nắm chắc giải pháp chấm dứt cuộc
chiến Việt Nam với rất nhiều options dự phòng cho các chính phủ
kế nhiệm (vì tối đa Tổng Thống Hoa Kỳ chỉ nắm giữ quyền lực có 2
nhiệm kỳ,tổng cộng 8 năm).
Vì tham chiến mà không có sự tuyên
chiến của Quốc Hội nên giải pháp để “chiến tranh tự tàn lụi” là
giải pháp được các lãnh tụ chính trị của Hoa Kỳ ưa thích nhất. Ý
nghĩ “để chiến tranh tàn lụi” mới xảy ra trong đầu óc của người
viết sau khi 2 Tổng Thống Obama và Tổng Thống Donald Trump dứt
điểm xong các lãnh tụ của Al–quaida và ISIS mà không cần có ký
kết thương thảo hay hòa đàm gì ráo!
Các lãnh tụ chính trị của Hoa Kỳ tin
tưởng rằng nếu thương dân thì sau 4 năm thiệt hại nhân mạng quá
lớn (1965, 1966, 1967 và 1968) các lãnh tụ BV sẽ phải lui quân
về Bắc thì chiến tranh VN đương nhiên sẽ tàn lụi. Nhưng không
ngờ, Hồ chí Minh và Ban Lãnh Đạo VC không biết điều lại gửi thêm
binh sĩ và quân trang quân dụng vào miền Nam cố chiếm lấy được
VNCH bất chấp cái giá phải trả. Do đó chúng ta thấy chính phủ
Nixon lên thay chính phủ Johnson, vẫn giữ chính lược “american
soldiers go home” nhưng thiết lập chương trình Việt Nam Hóa
Chiến Tranh VNCH tự vệ từ 1968 đến 1972.
Năm 1971, toàn thể lục quân Hoa Kỳ đã
trở về Hoa Kỳ, chỉ còn các quân nhân lục quân phụ trách yểm trợ
tiếp liệu cho Không Quân VN và lực lượng Hải Quân Hoa Kỳ còn ở
Biển Đông mà thôi. Tới năm 1974–1975 được sự yểm trợ tích cực về
vũ khí đạn được của Liên Sô, Lê Duẩn nhất quyết hy sinh đến thế
hệ thanh niên cuối cùng của miền Bắc động binh kéo 16 sư đoàn
vào Nam. “Chiến tranh tàn lụi” cũng có nghĩa là Hoa Kỳ đơn
phương ngưng viện trợ cho VNCH (viện trợ cho VNCH thêm nữa, dù
ít ỏi nhưng chiến tranh sẽ vẫn tiếp tục, thêm người chết và thêm
tốn phí vô ích...)
PHẦN KẾT:
Chiến tranh Việt Nam sở dĩ kéo dài và
nước Việt Nam chịu tổn thất nặng nề cả về mặt vật chất lẫn tinh
thần vì trình độ dân trí của nhân dân VN còn quá thấp kém. Người
dân Việt Nam (nhất là đám khoa bảng có một chút gọi là trí thức)
vẫn chưa phân biệt rạch ròi thế nào là NGƯỜI YÊU NƯỚC. Người yêu
nước trước hết phải thương dân, Hồ Chí Minh đam mê
sự nghiệp của ông ta chứ không hề thương dân.
Do đó Hồ Chí Minh không thể được gọi là NGƯỜI YÊU
NƯỚC (cho dù ông ta nhận vơ tên của mình là NGUYỄN ÁI QUỐC).
ÁI QUỐC hay
YÊU NƯỚC thiết yếu phải có nghĩa là THƯƠNG DÂN
hay nói chung là THƯƠNG NGƯỜI.
Không có tình người, không cổ võ tình
yêu thương đối với đồng loại thì Hồ chí Minh không thể là nhà ái
quốc được. Hồ chí Minh và những đảng viên CSVN luôn luôn hô hào
“đấu tranh giai cấp” để xã hội tiến bộ và luôn luôn đề cao “bạo
lực cách mạng để tiêu diệt kẻ thù giai cấp” thì không còn tư
cách để lãnh đạo dân chúng VN xây dựng một nước Việt Nam dân chủ
và phú cường được nữa.
Hãy xóa bỏ chế độ Cộng sản và vứt bỏ
chủ nghĩa Xã Hội tuyên truyền láo khoét và mị dân vô bổ đã gây
tác hại cho quốc gia Việt Nam trong suốt 75 năm qua.
ĐẦU NĂM KHAI BÚT
San José ngày 01 tháng 01 năm 2020
Trần Trung Chính
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
|
Hình nền: Xuân trên non-Rặng An-pơ, Thụy Sĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by LT chuyển
Đăng ngày Thứ Năm,
January 2, 2020
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang