Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Phiếm
luận
Chủ đề:
CUỒNG
Tác giả:
Vương Trùng Dương
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Tác phẩm đầu tay
L’Étranger (Người Xa Lạ) của nhà văn Albert Camus (1913–1960) ra
đời năm 1942, trở thành “hiện tượng” trong văn chương Pháp với
Chủ Nghĩa Hiện Sinh (Existentialisme). Trong văn học, hai nhà văn
Simone de Beauvoir (1908–1986) và J.P. Sartre (1905–1980) gặp
nhau từ năm 1929 và yêu nhau, sáng lập tờ báo “Thời Mới” (Les
Temps Modernes) để truyền bá chủ nghĩa hiện sinh ra ngoài phong
trào văn học. Kết thúc cuộc tình Simone de Beauvoir viết cuốn
Adieux: Một Lời Chia Tay Với Sartre (1981).
Tiểu thuyết đầu tiên của J.P Sartre tên
La Nausée (Buồn Nôn) về triết thuyết hiện sinh. Dưới hình thức
nhật ký, tác giả cảm nhận sâu sắc nội tâm của con người trong
cuộc sống với thế giới bên ngoài với bao nỗi băn khoăn, ray rứt,
và cả sự tàn nhẫn khó chấp nhận xảy ra trong bối cảnh ám ảnh bản
thân!
Cùng cổ
xúy cho Chủ Nghĩa Hiện Sinh, tình bạn giữa Albert Camus và
Jean–Paul Sartre vào giữa thập niên 30, rạn nứt vào năm 1952...
Và từ đó, ông viết những tác phẩm nói lên “phi lý” của con người
trong cuộc sống.
Bước vào năm 2022, tác phẩm Người Xa Lạ
tròn 80 năm, nhân dịp này mạn đàm về tựa đề tác phẩm trong quá
khứ và hình ảnh đó trong chúng ta hiện tại.
Với các tác phẩm của Albert Camus được
Giải Nobel Văn Chương năm 1957. Trong bài diễn văn ngắn gọn của
ông, có đoạn: “Dĩ nhiên là mỗi thế hệ đều tưởng mình có nghĩa vụ
xây dựng lại thế giới. Có điều là thế hệ của tôi lại biết rằng nó
sẽ không xây dựng lại được thế giới ấy. Nhưng nhiệm vụ thế hệ tôi
lại to tát hơn, đó là ngăn chặn một thế giới đang bị tàn phá...
Thời kỳ trí tuệ tự hạ mình đến mức chỉ để phục vụ cho thù hận và
áp bức, cái thế hệ này của tôi, từ những phủ định của chính mình,
đã phải dựng xây lại ngay trong bản thân mình và xung quanh mình
một chút giá trị gì còn lại đủ để tạo thành niềm kiêu hãnh sống
và niềm kiêu hãnh chết...
... Không chắc gì họ có thể hoàn thành
được nhiệm vụ mênh mông to tát đó, nhưng chắc chắn là, khắp nơi
trên thế giới, thế hệ này đã chấp nhận cuộc thách thức kép – chân
lý và tự do, và nếu có phải chết nó cũng biết chết mà không hề
oán hận cuộc thách thức ấy. Chính thế hệ này đáng được chào đón
và khích lệ ở khắp nơi nó đang hiện diện, và nhất là ở nơi nào nó
đang xả thân. Bất kể thế nào, tôi tin rằng quý vị cũng hết sức
đồng tình với tôi rằng tôi muốn tặng lại họ niềm vinh dự quý vị
đã trao cho tôi”. (Phạm Toàn dịch).
Cha người Pháp, mẹ người Tây Ban Nha,
Albert Camus sinh ngày 7 tháng 11 năm 1913 ở Mondovi, xứ Algérie
Bắc Phi. Năm 1914, Đệ Nhất Thế Chiến bùng nổ, cha ông chết ở Quân
Y Viện St Brieuc, ông không biết mặt cha. Sau khi chồng chết, vì
nghèo bà Sintes mang các con về vùng ngoại ô Belcourt ở chung với
mẹ và người chú bị tê liệt.
Năm 1930 ông đậu Tú Tài và để có tiền
ăn học, ông làm đủ nghề... thư ký cho sở khí tượng, tiệm bán đồ
phụ tùng xe hơi rồi công ty gởi hàng hoá. Lên đại học, ông theo
môn triết và đỗ Cử Nhân năm 1935, Cao Học 1936 ở Algérie. Camus
viết báo, hoạt động đòi công bằng, bác ái cho dân bản xứ Algérie
chống chính quyền thuộc địa. Báo bị đóng cửa không tìm ra việc
nên phải dời về Paris. Camus ra nhập đảng Cộng sản năm 1934 khi ở
Algérie và đến năm 1937 khi ở Pháp, ông bỏ đảng.
Những tác phẩm của Albert Camus vào
thập niên 60 được dịch ra tiếng Việt và không xa lạ gì với độc
giả ở miền Nam VN. Bùi Giáng dịch nhiều tác phẩm của Albert Camus
như: Le Malentendu (Ngộ Nhận), Caligula (Bạo Chúa Caligula),
L’Été (Mùa Hè, nhan đề Mùa Hè Sa Mạc), Le Mythe de Sisyphe (Huyền
Thoại Sisyphe) nhan đề Biển Đông Xe Cát, L’Homme Révolté (Con
Người Phản Kháng)...
La Chute (Sa Đọa), Djémila (Gió Về),
L’Envers et L’Endroit (Bề Trái & Bề Mặt), Noces (Giao Cảm), Trần
Thiện Đạo dịch. La Femme Adultère (Người Đàn Bà Ngoại Tình),
Nguyễn Văn Trung dịch, L’Exil et le Royaume (Lưu Đày & Quê Nhà),
Trần Phong Giao và Vũ Đình Lưu dịch... Tác phẩm La Peste (Dịch
Hạch), Hoàng Văn Đức dịch, 1966; Võ Văn Dung dịch, 1971.
Có thể nói, sau hai cuốn tiểu thuyết
nổi tiếng Kẻ Xa Lạ (1942) và Dịch Hạch (1947), thì tiểu luận Thần
Thoại Sisyphus (Le Mythe de Sisyphe, 1942) là tác phẩm quan trọng
bậc nhất của Albert Camus.
Thần thoại về Sisyphus, tiểu luận triết
học của Albert Camus với lập luận của điều phi lý từ thời cổ đại
xa xưa vẫn tồn đọng trong thời kỳ của Albert Camus. Tựa đề tiểu
luận, vốn là tên trong chương sau cùng, được gợi dẫn từ câu
chuyện của chàng Sisyphus trong thần thoại Hy Lạp. Theo đó, bắt
đầu từ lập luận phi lý rằng đời sống của mỗi cá nhân, ngay cả
những cá nhân tự xác định cho mình một lý tưởng, mục đích cao
đẹp, thường bị vây bủa trong những hành động đôi khi rất hoài
công và vô vọng.
Tháng 11 năm 2019, bài viết cho Giai
Phẩm Xuân Bính Tý (2020), tôi viết bài “Ông Năm Chuột & Số Phận
Phan Khôi” trong đó có đề cập đến số phận tác giả Ông Năm Chuột
bị hẩm hiu trong vụ án Nhân Văn – Giai Phẩm, “Phan Khôi và vợ con
bị đuổi ra khỏi nhà, phải tìm nơi tá túc ở số 10 Nguyễn Thượng
Hiền, rồi căn nhà nhỏ tồi tàn 73 phố Thuốc Bắc...”. Họa sĩ Trần
Duy, chứng nhân thời cuộc nên ghi lại hình ảnh này:
“Một buổi chiều tôi đến 51 Trần Hưng
Đạo thì gặp cảnh: Một quan chức có quyền lực quát đuổi vợ chồng
ông ra khỏi số nhà 51 Trần Hưng Đạo.
Người này quát lớn: Tống cổ thằng già
khốn nạn này ra khỏi đây!
Vợ ông, bà Huệ ôm chăn màn, sách vở;
ông Phan Khôi lảo đảo theo sau. Ra cổng gặp tôi, ông chào và nói:
Thôi, anh về đi... Buồn không cần thiết!
Đến buồn mà cũng không cần thiết, kể cả
khi hắt bát nước đi vẫn biết là không hớt lại được!
Hôm sau tôi gặp lại vị quan chức hôm
qua, nguyên là bạn học cùng tôi thời tiểu học ở Quy Nhơn, Bình
Định, tôi hỏi: Ăn ở đối xử với nhau như vậy có quá lắm không?
Nhất là tầm tuổi ông Phan cũng ngang hàng cha chú chúng mình?
Ông bạn tôi cười nói: Cậu có biết
chuyện lên đồng không? Người lên đồng nói những điều không do họ
chịu trách nhiệm, họ nói những điều đến từ thế giới khác...”
Trong khi đó, Albert Camus với tác phẩm
từ căn bệnh quái ác do loài chuột gây ra đã đưa ông lên đài danh
vọng cũng vào thời điểm vụ án Nhân Văn – Giai Phẩm.
Tác phẩm L’Étranger được dịch nhiều
nhất, (Kẻ Xa Lạ) Dương Kiền & Bùi Ngọc Dung dịch – Người Xa Lạ,
Tuấn Minh dịch – Kẻ Xa Lạ, Lê Thanh Hoàng Dân & Mai Vi Phúc dịch
– Người Xa Lạ, Võ Lang dịch...
Bùi Giáng là dịch giả đã dịch nhiều tác
phẩm của Albert Camus, có lẽ ông cảm nhận được nội dung ẩn ý
trong tác phẩm giữa con người và cuộc sống.
Ngày 2 tháng 4 năm 2020 tôi viết bài
“Từ tác phẩm Dịch Hạch đến dịch Covid–19”. Ngày 8 tháng 5 năm
2020, tôi viết bài “Trong Cơn Đại Dịch Covid–19, đọc lại tác phẩm
Dịch Hạch & Trăm Năm Cô Đơn”... để nhìn lại thời dĩ vãng với giai
đoạn hiện tại.
Trở lại với tác phẩm Người Xa Lạ, Võ
Lang dịch, Thời Mới, 1965. Kẻ Xa Lạ, Dương Kiền và Bùi Ngọc Dung
dịch, Ngày Nay, 1965. Kẻ Xa Lạ, Lê Thanh Hoàng Dân và Mai Vi Phúc
dịch, nhà xuất bản Trẻ, 1973. Người Xa Lạ, Tuấn Minh dịch. Được
giải thưởng dịch thuật năm 1970 của Phủ Quốc Vụ Khanh Đặc Trách
Văn Hoá.
Với
các bản dịch Việt ngữ, Người Xa Lạ – Kẻ Xa Lạ rất quen thuộc với
độc giả miền Nam VN thời đó chủ nghĩa và quan niệm (triết lý)
hiện sinh đang “trăm hoa đua nở” từ trời Âu... Và, trong thời
điểm chiến tranh xảy ra trong nước với thân phận người trai trong
cuộc chiến trở thành chứng nhân phi lý xảy ra trong cuộc sống và
đất nước!
Meursault, nhân vật chính trong “Người Xa Lạ” là một kẻ dửng
dưng, thậm chí dửng dưng trước tin mẹ của mình qua đời; đi tắm
biển rồi tình cờ phạm tội giết người; khi tòa hỏi lý do phạm tội
thì đổ tại mặt trời... Ngay cả khi đối diện với án tử hình, chàng
cũng chỉ mong có thật nhiều người tới xem buổi hành hình và chửi
rủa, để không cảm thấy lẻ loi, để mọi điều trọn vẹn.
Tác phẩm chỉ 12 chương, câu cuối cùng
“... Tôi chỉ còn ao ước đến ngày hành quyết tôi sẽ có rất nhiều
khán giả và họ sẽ tiếp đón tôi với những tiếng hò hét căm hờn”.
Hình ảnh Meursault coi như con người
bất thường vì thái độ dửng dưng ngay cả cái chết của người mẹ rồi
hành động tội ác và cả khi nhận bản án tử hình. Phải chăng “Người
Xa Lạ” là người bị tự kỷ ám thị với tha nhân và xã hội.
Theo bài viết của nhà văn Thụy Khuê:
“Meursault biểu trưng cho ‘cái không biết’ của con người, về
người khác, về chính mình. Cái ‘xa lạ’ giữa mình với người khác,
cái xa lạ giữa mình và chính mình. Và đó là nỗi đơn côi cùng cực
của con người đối với chính mình: Sự xa lạ đối với chính mình...
Người Xa Lạ là một trong những cuốn
tiểu thuyết chủ yếu của Pháp trong thế kỷ XX. Tính chất bí mật,
văn phong lạ, cách đặt vấn đề thân phận con người lồng trong hai
nét chính phi lý và bất khả tri, mở cửa cho nhiều ngòi bút khác
đến sau. Người Xa Lạ như một bi kịch kín của con người muốn khám
phá bản thân mình trong một mê cung, không lối thoát, và cho đến
phút chót, người ấy vẫn ‘xa lạ’ với chính mình...”
Trong thời gian qua, tôi bắt gặp hình
ảnh “Người Xa Lạ” xảy ra trong cộng đồng người Việt ở Hoa Kỳ và
cả hải ngoại trước nội tình chính trị với kỳ bầu cử Tổng Thống
năm 2020. Qua ba thập niên sống trên xứ sở này, tôi đã chứng kiến
những cuộc bầu cử Tổng Thống (4 năm một kỳ), với hai chính đảng
Cộng Hòa và Dân Chủ, cử tri người Mỹ gốc Việt tùy ý và vui vẻ bày
tỏ quan điểm của mình để chọn ứng cử viên Tổng Thống của Cộng Hòa
hay Dân Chủ. Trong tình bạn bè cũng có những lần tranh cãi nhau
tuy bất đồng nhưng không bất hòa để dẫn đến tình trạng “gà nhà
bôi mặt đá nhau” rồi trở thành “Người Xa Lạ”. Nhà thơ Ngọc Hoài
Phương với thi phẩm Cõi Tạm đã nhiều lần chia sẻ với tôi rằng thế
hệ chúng ta tuy người Mỹ gốc Việt nhưng vẫn coi nơi này như mảnh
đất tạm dung, có lẽ ở các thế hệ sau.
Thưở còn học trung học, khoái chuyện
xảy ra dưới thời Tự Đức với nhà thơ Chu Thần Cao Bá Quát
(1809–1854), lúc đó văn thần Phan Văn Nhã được lệnh vua chấp bút
bài văn Ngọc Diệp liệt kê và ca ngợi các bậc tài hoa nổi danh
trong triều. Thảo xong, Phan Văn Nhã cho tổ chức buổi tiệc khoản
đãi quần thần để khoe áng văn bất hủ. Bài văn đến tay quan Thượng
Thư Võ Phạm Khải, quan thượng thư vừa liếc xem qua đã phán “Văn
mà thế này thì đến chó cũng làm được!” Tác giả tức khí, hai bên
lời qua tiếng lại, cãi nhau ỏm tỏi, chẳng ai chịu ai! Hết võ mồm
thì đến dụng võ chân tay! Sự việc đến tai vua Tự Đức. Vua Tự Đức
cho mời quan Hành Tẩu Bộ Lễ (nhà thơ Cao Chu Thần) trình bày cho
nhà vua nắm rõ mọi chuyện.
Bản báo cáo (giai thoại văn học), ngắn
gọn như sau:
“Tiền, Quát bất tri
Hậu, Quát bất tri
Trung gian Quát chí
Đản kiến:
Thượng bàn hô cẩu
Hạ bàn hô cẩu!
Thượng hạ giai cẩu!
Lưỡng tương đấu ẩu
Thần gián bất đắc
Thần kiến thế nguy
Thần hoảng thần tẩu!”
(Trước, Quát không biết.
Sau, Quát chẳng hay.
Nửa chừng Quát đến.
Thấy như thế này:
Bàn trên chửi chó!
Bàn dưới mắng chó!
Trên dưới đều chó.
Hai bên choảng nhau.
Thần can chẳng
được.
Thần thấy thế nguy.
Thần sợ, thần chuồn!)
Hai thế kỷ sau, sống trên xứ người lại
chứng kiến cảnh tượng “lưỡng tương đấu ẩu” xảy ra trong kỳ bầu cử
Tổng Thống Hoa Kỳ năm 2020, với người Việt lưu vong của chúng ta
tình trạng không thể ngờ chuyện phe này, cánh nọ... trong cộng
đồng, bạn bè, người thân trong gia đình và cả những người bên tận
trời Âu để rồi trở thành “Người Xa Lạ” và còn ấm ức, hận thù...
Có lẽ, nỗi đau của anh cũng là nỗi đau
của người nhiều trong hoàn cảnh này! Phi lý quá, chuyện ngoài ngõ
không bỏ ngoài tai mà mang vào nhà để rồi coi như “người dưng
nước lã!” Người xưa đã nói “thái quá bất cập” nay phe này, phe
kia bất đồng chính kiến thì phang ngay chữ “cuồng”... Nhà báo Lê
Dư (1884–1967), gốc Quảng Nam, em rể nhà văn Phan Khôi, cộng tác
với các báo: Nam Phong tạp chí, Hữu Thanh, Đông Tây... lấy bút
hiệu là Sở Cuồng để tả xung hữu đột.
Tháng 8/2020 tôi viết: Phiếm Luận –
Ngẫm Chuyện: Cuồng
Trích bài viết:
Ngày xưa, vào đời nhà Trần, ngài Tuệ
Trung Thượng Sĩ (1230–1291) là bậc quân sự lỗi lạc, học giả uyên
bác, có tước hiệu Hưng Ninh Vương.
Ngài cùng với Đức Trần Hưng Đạo (Hưng
Đạo Vương) đem hơn hai vạn quân giao chiến, với tướng Nguyên
Mông, đuổi Thoát Hoan chui ống đồng, chạy dài. Khi ngài xong việc
rửa thù báo hận, xa chốn bụi trần, trở thành thiền sư Phật Giáo
Đại Thừa.
Trong bài thơ Phóng Cuồng Ngâm của thiền sư Tuệ Trung Thượng Sĩ,
nhắc đến chữ “cuồng”:
“... Cuồng ngô cuồng hề Phổ Hoá cuồng
Đốt đốt phù vân hề phú quý
Hu hu quá
khích hề niên quang
Hồ vi hề quan đồ
hiểm trở...”
“... Cuồng cái ta cuồng chừ, Phổ Hoá cuồng!
Ối ối! Giầu sang chừ, lưng trời mây nổi,
Chà chà! Năm tháng chừ, bóng ngựa lướt ngang!
Nói sao chừ, chông gai bể hoạn...”
(Bản dịch của Đỗ Văn Hỷ)
(Chú thích: Thiền sư Phổ Hoá vào thế kỷ
thứ 9 ở Trung Hoa, lập ra nhánh thiền là Phổ Hoá tông.)
Trong bài Phóng Cuồng Ngâm, bậc thiền
sư nói về chữ “cuồng” mà xưa nay, thường hiểu là ngông, là điên.
Đó là hiểu theo nghĩa đen. Còn nghĩa khác là cuồng nhiệt, ý khí
mạnh mẽ. Ông Lý Việt Dũng (nghiên cứu và dịch sách Phật Giáo)
giải thích trong ý thơ Tuệ Trung Thượng Sĩ:
“Phóng cuồng ở đây không có nghĩa là
điên cuồng hay cuồng nhiệt gì cả, mà chẳng qua Tuệ Trung Thượng
Sĩ không muốn coi khúc ngâm của mình là một bài ca chứng đạo hay
một bài kệ truyền pháp mẫu mực, trang nghiêm, chỉ xem đó là một
khúc hát ngông nghênh, phóng khoáng có tính chất tiêu dao của một
thiền sư đạt đạo thắm đượm tự nhiên khí chất của một nho sĩ lãng
tử và một đạo sĩ thoát tục.
Nói chung là của một con người phiêu
nhiên không bị ràng buộc. Cho nên ta phải hiểu chữ ‘phóng cuồng’
đây chỉ là một cách nói tự khiêm mà cũng để nói lên tính chất
thung dung tự tại với người đạt đạo, đạt quan, ở Đạo và ở Thiền,
vốn bình thường giản dị chớ không có gì phi thường, ẩn mật, bí
tàng như nhiều người lầm tưởng”...
Chữ “cuồng” mang ý nghĩa thái quá khi
nghĩ hay hành động (xấu) nhưng không đơn thuần như vậy đôi khi nó
đi kèm với chữ kế tiếp để diễn đạt cảm nghĩ, thái độ hăng say,
nhiệt tình (tốt). Những dòng trong thơ, nhạc không ngại ngần bày
tỏ như:
“Lòng cuồng điên
vì nhớ, Ôi Đâu người đâu ân tình cũ”
(Hoài Cảm của Cung Tiến)...
Trong thi phẩm Tinh Huyết của nhà thơ Bích Khê cuồng yêu với hình
ảnh:
“Ai bảo
là tôi chửa chết rồi!
Máu cuồng vẫn chảy
điệu mê tơi,
Máu cuồng run khắp trong
thân thể,
Ai bảo là tôi chửa chết rồi!”
(Cơn Mê)
... Truyện chưởng của Kim Dung đã lôi
cuốn độc giả “ghiền” không thuần túy là chuyện xuất chiêu, tung
chưởng... đấm đá túi bụi mà luận bàn về trà, rượu, kiếm... nhất
là những cuộc tình ngang trái, những mối tình si, cuồng vì yêu,
tình cuồng... Trong hai phái hắc/bạch không đội trời chung thế mà
họ dám yêu nhau, cuồng quá đi thôi với mối tình thật lãng mạn.
Trong quyển Cô Gái Đồ Long (Ỷ Thiên Đồ
Long), Quận chúa Triệu Mẫn (Triệu Minh) người Mông Cổ từ bỏ địa
vị cao sang, bỏ cha và anh ruột để ra đi cùng Trương Vô Kỵ. Mối
tình ngang trái nhất là Dương Tiêu và Kỷ Hiểu Phù. Dương Tiêu là
Quang Minh Tả Sứ của Minh Giáo, Kỷ Hiểu Phù là đệ tử cưng nhất
của Diệt Tuyệt Sư Thái phái Nga My. Kỷ Hiểu Phù được chưởng môn
cử đi tìm tung tích thanh Đồ Long đao, nàng đã gặp Dương Tiêu rồi
bị Dương Tiêu bắt cóc, thế rồi từ nạn nhân trở thành tình nhân.
Mối tình vụng trộm này sinh ra bé gái đặt tên là Dương Bất Hối.
Cuối cùng để bảo vệ tình yêu của mình, Kỷ Hiểu Phù chấp nhận chết
thê thảm về tay chính sư phụ mình là chưởng môn Diệt Tuyệt Sư
Thái vì bà coi Dương Tiêu là đại ác nhân.
Kỷ Hiểu Phù được chưởng môn cử đi tìm
tung tích thanh Đồ Long đao, nàng đã gặp Dương Tiêu. Ban đầu,
Hiểu Phù rất chán ghét Dương Tiêu nhưng về sau, khi có thời gian
tiếp xúc, Kỷ Hiểu Phù đã đem lòng yêu thương người mà sư phụ nàng
cho là đại ác nhân.
Trong quyển Tiếu Ngạo Giang Hồ, Nhậm
Doanh Doanh, con gái của giáo chủ tà giáo Nhật Nguyệt thần giáo
vì yêu Lệnh Hồ Xung của phái Hoa Sơn, tự nguyện lên núi Thiếu
Thất, cam chịu để phái Thiếu Lâm cầm tù mình mong đổi lấy lời hứa
của Phương Chứng đại sư nhận chữa thương cho người tình.
Bà Diệt Tuyệt Sư Thái lúc nào cũng xưng
danh chính phái nhưng vì mưu đồ muốn có hai thanh bảo đao Ỷ Thiên
kiếm và Đồ Long đao chứa bí kíp để thống lĩnh quần hùng, làm bá
chủ võ lâm. Chưởng môn phái Hoa Sơn là Nhạc Bất Quân tự cho mình
là chính nhân quân tử nhưng là con người gian trá, xảo quyệt,
ngay cả con gái duy nhất của ông là Nhạc Linh San cũng ép gả cho
Lâm Bình Chi để dò xem con rể của ông có bí kíp gia truyền Tịch
Tà kiếm phổ lừng danh thiên hạ. Khi có bí kíp trong tay còn dùng
thủ đoạn dựng chuyện đổ oan cho đệ tử Lệnh Hồ Xung.
Đơn cử hai nhân vật có máu mặt trong
chốn võ lâm với “tâm xà, khẩu Phật” mà ngày nay nhan nhản trên
chính trường xứ Cờ Huê... qua thời gian mới rõ trắng/đen.
Trong quyển Lộc Đỉnh Ký, Hồ Dật Chi say
mê hầu thiếp của Ngô Tam Quế là Trần Viên Viên, cam chịu kẻ làm
vườn, tưới rau trong mấy chục năm để được lén nhìn người tình
trong mộng.
Kiến Ninh công chúa, em gái vua Khang Hy, yêu cuồng tên thái giám
giả mạo Vi Tiểu Bảo, xuất thân từ chốn lầu xanh, chỉ viết được
chữ nhất (gạch ngang), cô ta bị chứng “masochism” muốn được Vi
Tiểu Bảo trói cột, đánh đập cho vỡ da tóe máu mới được thấy lạc
thú việc trao thân.
Trong quyển Thần Điêu Hiệp Lữ, cô cô và
Quá nhi (Tiểu Long Nữ thường gọi đệ tử Dương Quá) nảy sinh cuộc
tình “Vòng Tay Học Trò” của nhà văn Nguyễn Thị Hoàng. Lợi dụng
lúc Tiểu Long Nữ bị Âu Dương Phong điểm huyệt không cử động được,
Doãn Chí Bình chợt thấy, hãm hiếp Tiểu Long Nữ rồi trốn đi, nhưng
nàng lúc đó nửa tỉnh nửa mê, bị vải áo che mắt cứ nghĩ là Dương
Quá. Tiểu Long Nữ tức giận Quá nhi “chơi rồi chạy” nên bỏ đi. Khi
xa cô cô, Dương Quá không biết nguyên do, lặn lội khắp chốn giang
hồ để mong gặp người tình nhưng kéo dài đến 16 năm. Khi Dương Qua
trở thành cao thủ võ lâm, sau khi làm xong đại sự, trở về Tuyệt
Tình Cốc chờ Tiểu Long Nữ. Đến kỳ hạn 16 năm, không thấy bóng
dáng cô cô, chàng liền nhảy xuống Đoạn Trường Nhai tự vẫn. Tình
cờ thay ở dưới đáy Tuyệt Tình Cốc có một sơn động mà Tiểu Long Nữ
đã ẩn sống ở đó 16 năm. Dương Quá gặp lại Tiểu Long Nữ, hai người
leo lên và trở về thành Tương Dương. Chàng và nàng cùng đồng đạo
võ lâm chống giặc, xả thân vì nước.
Trong bài viết Tình Yêu Trong Tiểu
Thuyết Kiếm Hiệp Kim Dung của tôi vào cuối năm đã đề cập nhiều
nên không trích lại vì dài dòng.
Còn rất nhiều kẻ tình si, cuồng điên vì
yêu “cuồng điên vì nhớ”... đến nỗi khi sống không được bên nhau,
thì khi chết chỉ mong được bên cạnh mộ...
Dương Quá chỉ mất 16 năm, còn nhà thơ
Vũ Hoàng Chương với thời gian gấp đôi trong thi phẩm Ta Đợi Em Từ
Ba Mươi Năm. Trong bài thơ Chờ Đợi Hoài Công đã than thở:
“Ta đợi em từ ba mươi năm
Uổng hoa phong nhụy hoài trăng rằm
... Hiu hắt tình trai một kiếp suông
Mênh mông nêm gối rét căn buồng
Lệ sa
bạch lạp ngàn đêm trắng
Thơ vút sầu say
rượu nhập cuồng”
Bái phục “ông thần” si tình có một
không hai trong thi ca Việt Nam.
“Tình ta ta tiếc – cuồng – ta khóc
Tố của Hoàng nay Tố của ai?”.
(Mười Hai Tháng Sáu)
Ngoài Vũ Hoàng Chương, bái phục nhà
giáo Trần Bích Lan, nhà thơ Nguyên Sa si tình đến nỗi cam chịu
nóng đốt cháy da vì làm hoa hướng dương dưới đường xích đạo. Khi
gặp ông trong Ban Biên Tập SVSQ với nhau của nguyệt san Bộ Binh ở
quân trường Thủ Đức vào đầu năm 1967, chẳng thấy gì nhà giáo, nhà
thơ này là kẻ tình si. Mới biết “cuồng” vì yêu cho thêm phần lãng
mạn...
Ngẫm
lại chuyện thế gian với chữ “cuồng”, tùy nghi cảm nhận...
Giới trẻ ngày nay thích các nhân vật
trong phim, thể thao, âm nhạc... lập “fans” này “fans” nọ...
“cuồng” theo sở thích, có gì là xấu?
Trong các nước độc tài, đảng trị... áp
bức người dân phải khuất phục “cuồng nhiệt” tôn thờ lãnh tụ nhưng
trong lòng họ lại “cuồng nộ” phẫn uất! Vậy chữ “cuồng” kèm theo
chữ kế tiếp, có gì là xấu (?).
Thành ngữ có câu “Thái quá bất cập” vì
vậy không những ở chữ “cuồng” mà với các khía cạnh khác cũng
chẳng hay ho gì.
oOo
Tấm Gương Của Bậc Tiền Nhân
* Đức Trần Hưng Đạo (1228–1300) gác thù
riêng, dốc lòng vì nước.
Trần Hưng Đạo (Trần Quốc Tuấn) con của
An Sinh Vương Trần Liễu. Trần Liễu là anh trai của Trần Cảnh, tức
vua Trần Thái Tông, vốn có mối thù bị cướp vợ với Trần Thái Tông
nên yêu cầu con trai phải giành được thiên hạ, vì việc nước trước
sự xâm lăng của Nguyên Mông, Trần Hưng Đạo đã không làm theo lời
cha, gác thù riêng, dốc lòng đánh đuổi giặc ngoại xâm.
Năm 1282 Hốt Tất Liệt sai Toa Đô cầm
quân theo đường biển xuống đánh Đại Việt. Vua Trần Nhân Tông họp
các vương hầu và tướng lãnh ở Bình Than, Chí Linh để tìm kế chống
quân Nguyên. Năm 1283 vua Trần Nhân Tông bổ nhiệm Trần Quốc Tuấn
làm Quốc Công, Tiết Chế thống lĩnh chư quân. Năm 1284 Hốt Tất
Liệt sai một cánh quân khác do thái tử là Trấn Nam Vương Thoát
Hoan tiến xuống bằng đường bộ, nhắm trực chỉ Đại Việt. Được tin
này nhà vua ra lệnh Trần Quốc Tuấn tổ chức đội quân chuẩn bị
chống xâm lăng.
Vua Trần Nhân Tông phong tước cho Trần
Quốc Tuấn để an ủi cha vợ và nhã ý làm giảm thù nhà để cùng nhau
lo việc nước. Trần Hưng Đạo quên đi mối thù mà cha mình là Trần
Liễu đã gởi gắm mà hết lòng chiến đấu với thù ngoại xâm.
Đại Việt Sử Ký Toàn Thư ghi lại rằng
khi quân Nguyên sang xâm chiếm Đại Việt, Trần Hưng Đạo lúc đó đã
nắm hết uy quyền trong tay, đem di mệnh của phụ thân hỏi hai
người gia nô thân tín và trung thành là Yết Kiêu và Dã Tượng. Hai
ông đều thẳng thắn trả lời rằng: “Nếu thi hành kế ấy, dù có giầu
sang được một lúc, mà tiếng xấu để mãi đến ngàn đời. Đại Vương
bây giờ chả phải đã giầu sang rồi ư? Chúng tôi tình nguyện chết
già làm người nô bộc...”. Trần Hưng Đạo nghe những lời này cảm
động rơi nước mắt.
Hịch Tướng Sĩ của Hưng Đạo Vương Trần
Quốc Tuấn đã mang lại niềm tin cho tướng sĩ với những chiến công
lẫy lừng trong lịch sử đất nước.
Ngài là tấm gương sáng muôn đời, Thánh
Tổ của Hải Quân QLVNCH.
Hiện nay, ở Little Saigon, trên đường
Bolsa có tượng Đức Thánh Trần vào Chủ Nhật, 30 tháng Tư năm 2017,
đoạn đường trên đường Bolsa từ góc đường Magnolia đến góc đường
Brookhurst đặt tên Đại Lộ Trần Hưng Đạo.
* Cụ Phan Bội Châu & Phan Chu Trinh
Năm 1804 vua Gia Long đặt quốc hiệu là
Việt Nam, đến năm 1932 vua Minh Mạng đặt quốc hiệu là Đại Nam tồn
tại đến 1945 nhưng thời gian sau quốc hiệu này không còn thông
dụng. Từ cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, hai tiếng Việt Nam
được sử dụng trở lại bởi các nhà sử học và chí sĩ yêu nước trong
các tác phẩm và các tổ chức chính trị... Cụ Phan Bội Châu viết
Việt Nam Vong Quốc Sử (1905).
Về danh xưng Bắc kỳ (13 tỉnh), Trung kỳ
(12 tỉnh), Nam kỳ (6 tỉnh nên gọi là Lục tỉnh) ấn định ranh giới
3 miền do vua Minh Mạng đặt ra năm 1834.
Hòa Ước Quý Mùi năm 1883 còn gọi là Hòa
Ước Harmand ký kết ngày 25/8/1883 giữa triều đình Huế và chính
phủ Pháp thừa nhận Pháp thống trị toàn bộ Việt Nam.
Hòa Ước Giáp Thân 1884 còn gọi là Hòa
Ước Patenôtre, ký kết giữa triểu đình Huế với Pháp ngày 6/6/1884
tại kinh đô Huế. Hòa Ước này ấn định Nam Kỳ là xứ thuộc địa Pháp;
Bắc Kỳ và Trung Kỳ là xứ bảo hộ của Pháp... trên danh nghĩa triều
đình nhà Nguyễn vẫn được quyền kiểm soát nhưng ít thực quyền.
Cụ Phan Bội Châu (1867–1940) & Phan
Châu Trinh (1872–1926) – hai trong số sĩ phu yêu nước nổi tiếng
nhất Việt Nam, đại diện cho thế hệ trí thức sinh nửa sau thế kỷ
19, rất khác xa về tư tưởng và đường lối nhưng có chung tình bạn
đẹp.
Năm 1904
Phan Chu Trinh cùng Nguyễn Hàm và khoảng 20 đồng chí khác thành
lập Duy Tân hội ở Quảng Nam để đánh đuổi Pháp, chọn Kỳ Ngoại hầu
Cường Để – một người thuộc dòng dõi nhà Nguyễn – làm hội chủ.
(Tên gọi Bắc kỳ, Trung Kỳ và Nam kỳ của
nước Đại Nam triều Nguyễn, do vua Minh Mạng đặt ra năm 1832).
Cụ Phan Bội Châu chủ trương:
1: Liên kết với đảng cũ Cần Vương còn
lưu lại và các trai tráng ở chốn sơn lâm, xướng khởi nghĩa quân;
2: Ứng phù một minh chủ kén chọn ở
trong hoàng thân lập ra, âm kết với những người hữu học ở đương
triều làm người nội viện;
3: Xuất dương cầu ngoại viện...
Đầu năm 1905, cụ Phan Bội Châu khi sang
Nhật, về nước giữa năm 1905, thành lập Hội Nông công thương học,
rồi đưa Kỳ Ngoại Hầu Cường Để sang Nhật.
Tháng 5/1921, Việt Nam Quang Phục hội
được thành lập do Cường Để làm Hội Trưởng, Phan Bội Châu là người
đề xướng và làm Tổng Lý. Mục đích cầu viện Nhật hỗ trợ cho công
cuộc phục hưng, đánh đuổi thực dân Pháp.
Cụ Phan Chu Trinh với tư tưởng canh tân
đất nước, cụ cho rằng Việt Nam phải phát triển kinh tế và giáo
dục để tự lực tự cường, hội nhập vào thế giới văn minh rồi mới
nên mưu cầu độc lập chứ không nên cầu viện ngoại bang dùng bạo
lực để giành độc lập cho đất nước: “Khai dân trí, chấn dân khí,
hậu dân sinh”.
Phong trào Đông Du có mục đích kêu gọi
thanh niên Việt Nam ra nước ngoài (Nhật Bản) học tập, chuẩn bị
lực lượng chờ thời cơ cho việc giành lại độc lập cho nước nhà.
Trái hẳn với cụ Phan Bội Châu, châm
ngôn của cụa Phan Châu Trinh là “Vọng ngoại tắc ngu, bạo động tắc
tử” (Không nên cậy vào nước ngoài, cậy vào nước ngoài là ngu;
không nên bạo động, bạo động là chết) và “ỷ Pháp cầu tiến bộ” mà
trên thực tế có nghĩa là phải tạm thời chấp nhận chính quyền
thuộc địa nhằm mở mang dân trí và cải cách chế độ cai trị của
người Pháp, rồi từng bước phục hồi nền độc lập quốc gia.
Hai cụ cùng dấn thân công cuộc đấu
tranh cho chủ quyền đất nước nhưng hai chủ trương khác nhau, tuy
bất đồng chính kiến nhưng không bất hòa.
Sau này khi nhận xét về cụ Phan Bội
Châu, cụ Phan Châu Trinh cho rằng “Tôi tự biết những lý do mà chủ
nghĩa của ông ấy đưa ra thì rất yếu, nhưng nếu áp dụng vào đặc
tính của dân nước Nam thì rất mạnh. Chủ nghĩa của tôi, lý do đưa
ra thì rất mạnh, nhưng nếu áp dụng vào đặc tính của người nước
Nam trong tình thế hiện tại thì rất yếu. Chủ nghĩa của ông ấy rất
hợp với đặc tính và trình độ của quốc dân, lại nhắm vào chỗ mạnh
mà lợi dụng và vì ở hải ngoại nên ngôn luận tự do, dễ có người
theo, do đó chủ nghĩa ông ấy sẽ tất thắng. Chủ nghĩa của tôi
tương phản với đặc tính và trình độ của quốc dân, lại nhắm vào
chỗ yếu mà cứu và vì ở trong nước nên bị các thế lực chèn ép và
nghi kỵ tập trung vào, các hoạt động và ngôn luận đều không được
tự do nên người theo cũng khó, do đó chủ nghĩa của tôi tất bại”.
Năm 1925, cụ Phan Bội Châu bị Pháp bắt
ở Trung Hoa và giải về nước. Thực dân Pháp đem ông ra toà án xét
xử và khép vào tội tử hình. Trước áp lực đấu tranh của dân chúng,
toà án thực dân buộc phải tuyên bố tha bổng, nhưng sau đó chính
quyền thuộc địa đã đưa ông về quản thúc ở kinh đô Huế. Cụ Phan
Bội Châu đã qua đời tại đây năm 1940.
Cụ Phan Châu Trinh vào Sài Gòn tháng 6
năm 1925, cụ diễn thuyết hai lần trước khi qua đời ngày
24/3/1926. Cụ nhận định quan điểm giữa cụ và cụ Phan Bội Châu tuy
có khác nhưng phát xuất từ tấm lòng thiết tha với tiền đồ dân tộc
nên rất quý trọng nhau.
Tiếc thương cụ Phan Chu Trinh, cụ Phan
Bội Châu trong Văn Tế Phan Chu Trinh, thương tiếc:
“Lấy ai đây nối gót nghìn thu,
Vậy ta phải kêu người chín suối.
... Anh em ta:
Đất rẽ đôi đường;
Tình chung một khối.
Gánh tồn vong ai cũng nặng nề;
Nghĩa
chung thuỷ lòng càng bối rối”.
Thời Việt Nam Cộng Hòa, tên đường và
nhất là tên trường mang tên cụ Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh để
tưởng nhớ hai bậc tiền nhân.
oOo
Trở lại với chuyện trên chính trường xứ
Cờ Huê trong năm 2021 cho đến nay. Theo dòng lịch sử của đất nước
này không phải đây là lần đầu mà xảy ra nhiều lần trong quá khứ.
Nhưng nay, không hiểu vì sao không quan tâm đến nỗi buồn vong
quốc mà “gà nhà bôi mặt đá nhau!”
Trong những thân hữu, bạn văn “cùng hội
cùng thuyền” trong hai năm qua, có dịp trao đổi với nhau vào thời
điểm dịch Covid–19 bị “bế quan tỏa cảng”... Trong đó, lần trao
đổi với người bạn văn, anh cho biết ngày xưa khi còn Đại Đội
Trưởng của Đại Đội trinh sát, bao lần vào sinh ra tử, tình chiến
hữu thiêng liêng và cao đẹp biết bao. Trải qua thời gian lao tù,
vượt biên, anh trở thành chiến hữu cầm bút với tinh thần của
người lính trinh sát. Trong loạt bài của anh gần hai năm qua với
kinh nghiệm bản thân anh muốn chia sẻ cho giới trẻ ý thức và quan
điểm của người Việt lưu vong trên xứ người. Trong năm 2020, anh
tâm sự với tôi, thật phi lý và vô lý, trong gia đình, con cái
đứng một phe đối lập với bố, may mà có người vợ hiền đồng cảm với
anh để mong hàn gắn “vết thương” trong gia đình... Với bạn bè,
tuy thiểu số... không biết chia sẻ thế nào để đồng cảm nên đành
chấp nhận “Người Xa Lạ”! Tôi được may mắn hơn anh, không có tình
trạng đó trong gia đình.
Với tôi, chỉ có vài người bạn thân từ
thời ở quân trường cùng ca bài trong hành khúc Lục Quân Việt Nam
của Văn Giảng “Một, hai, ba, bốn... Đường trường xa muôn vó câu
bay dập dồn... Đường trường xa ta quyết đi cho đến cùng... Ta anh
hùng đời đời Lục Quân Việt Nam...”. Cùng vui đùa ví von “Đường
trường xa, con chó nó tha con mèo”... nay trở thành xung khắc
nhưng chỉ Spam qua email... cũng may không có lời qua tiếng lại.
Như đã đề cập qua bài viết trước đây,
với công việc làm báo, không lệ thuộc giờ giấc nên mỗi sáng đều
qua quán cà phê đấu láo với bằng hữu suốt 3 thập niên, thế mà
trong suốt 16 tháng (3/2020 đến tháng 7/2021) dù đã chích ngừa 2
mũi Moderna vào tháng 2/2021 nhưng mỗi sáng vẫn cà phê back yard.
Không muốn ngồi với nhau mà nghe lời này ý nọ trái khoáy, máu
Quảng Nam mà không cãi thì mất gốc... nên xa lánh! Thôi đành làm
“người xa lạ”.
Nhân dịp đầu năm 2022, tác phẩm
L’Étranger (Người Xa Lạ) của nhà văn Albert Camus tròn 80 năm,
mượn tựa đề tác phẩm này để tản mạn đôi chút về “Người Xa Lạ...
Giữa chúng ta”, mong rằng vào thời điểm nào đó sẽ không còn hình
ảnh này. Gọi là tản mạn nên viết bâng quơ, xin đừng nghĩ đây là
sự nhận định mà tổn thọ người viết.
Nội tình chính trị xứ Cờ Huê là game
chơi sấp/ngửa liên tục, mà đã là game chơi từng xảy ra trong quá
khứ, chúng ta đã chứng kiến “người bạn đồng minh” nhảy vào và
tháo chạy qua hai tác phẩm của TS Nguyễn Tiến Hưng, nạn nhân giữa
bạn và thù.
Trước đây TT Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố: “Làm kẻ thù của Mỹ thì
dễ, làm bạn với Mỹ thì rất khó”, làm bạn với mấy ông bà chính trị
gia của Mỹ làm gì, ngoài tầm tay của chúng ta. Đó là canh bạc mà
tay mơ nhảy vào để rồi làm “bác thằng bần”.
Thiện tai!
Little Saigon, Jan 2022
Vương
Trùng Dương
Nguồn:
http://www.dslamvien.com/2022/01/tan-man-dau-nam-2022-nguoi-xa-la-giua.html
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Vương Trùng Dương chuyển
Đăng ngày Thứ Tư, January 12, 2022
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang