Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Bút
ký
Chủ đề:
NKT
Tác giả:
LH Nguyễn Hữu Thọ
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Từ trước đến nay đã có nhiều sách, bài được viết dưới thể loại
Hồi Ký về các trận đánh lẫy lừng của các Quân Binh Chủng thuộc
QLVNCH; các trận đánh và các địa danh đã dược ghi vào chiến sử
của VNCH và các nước khác trên thế giới; những chiến trận này
được thực hiện bởi những đại đơn vị, ít nhất cũng là cấp đại đội.
Nhưng rất ít bài mô tả những cuộc hành quân cấp toán (4,6 người)
của các Toán Trinh Sát Tiểu Khu, Trung Đoàn, Sư Đoàn BB, Sư Đoàn
Nhảy Dù, TQLC, các toán Delta của LLĐB... và lại càng hiếm hoi
hơn là các Toán Lôi Hổ thuộc Sở Liên Lạc và Sở Công Tác trực
thuộc Nha Kỹ Thuật/TTM. Các Toán này âm thầm hành quân len lỏi
trong các Căn Cứ Địa của Cộng sản bên kia biên giới của Việt Nam,
thuộc vùng dất Lào và Cam Bốt, giũa rừng già heo hút của dãy
Trường Sơn chập chùng. LẺ LOI và ÂM THẦM, đó là tính chất hành
quân của các người lính Biệt Kích có tên gọi nghe hiền lành: NHA
KỸ THUẬT. Ngoài ra còn các chàng Người Nhái Biệt Hải thuộc Sở
Phòng Vệ Duyên Hải và các bậc đàn anh thuộc “Sở Bắc” (SB) đã từng
nhảy xâm nhập đất Bắc vào những năm đầu của thập niên 60, điển
hình như “Người tù kiệt xuất: Đại úy Nguyễn hữu Luyện”.
Hầu như ít người biết đến cái tên NHA
KỸ THUẬT. Tên gọi này nghe rất hiền lành như một đơn vị lo về cơ
khí, máy móc hoặc về ngành nghề có tính cách chuyên môn. Hoặc nếu
có người biết đôi chút thì họ đều nghĩ rằng đơn vị Nha Kỹ Thuật
thuộc Phòng 7 TTM. Tất cả những hiểu biết ít ỏi này cộng thêm với
những giai thoại được thổi phồng tạo thành một huyền thoại cho
các chàng Biệt Kích này.
Bài này được viết theo lời đề nghị của
Ban Biên Tập báo LÝ TƯỞNG của Không Quân VNCH, tiếp theo một bài
được tôi kể lại về một lần tôi bị SA–7 bắn rớt ở mặt trận Quảng
Đức vào cuối năm 1973, cũng đăng trên tập san này, số 3/2004. Phi
vụ này tôi bay cùng với Pilot Bắc Đẩu 65 trên phi cơ L–19 của
PĐ118/SĐ6KQ
Những chi tiết liên quan đến các đơn vị thuộc Nha Kỹ Thuật trong
bài này được tôi trình bày theo những hiểu biết sẵn có của cá
nhân tôi cũng như những mô tả các lần nhảy toán là do chính bản
thân tôi tham dự. Những thiếu sót ngoài tầm hiểu biết của tôi,
xin các Niên Trưởng cũng như các chiến hữu cùng chung đơn vị bổ
sung thêm để xóa tan những hiểu biết lệch lạc về đơn vị Nha Kỹ
Thuật.
*****
Sau 13 chuyến nhảy toán, tôi được Trung
tá CHT/CĐ2XK gọi lên và chuyển tôi qua đi bay với chức vụ là SQ
Tiền Không Sát. Sở dĩ có vụ này là vì trong thời gian đi toán,
tôi thường hằng đêm la cà ở Câu Lạc Bộ để nhậu nhẹt với bạn bè và
đùa với mấy em chiêu đãi cho vui. Trong số bạn bè này có vài
người Mỹ, họ cũng là quân nhân của Liên Đoàn 5 LLĐB Hoa Kỳ mà
ngành hoạt động của chúng tôi là một phần trong kế hoạch của Mỹ
dưới tên là MACV–SOG (Military Assistant Command Vietnam of
Studies & Observation Group). Trong lúc giao tiếp hay vui chơi
nhậu nhẹt, tôi cũng talk líp lơ với họ nên có một vài SQ biết
được, cho nên khi đơn vị cần 1 SQ TKS, anh này đã đề nghị tôi.
Thế là từ đó tôi chấm dứt “nghề” nhảy toán, chuyển qua “nghề” bay
bổng.
Ngày bắt
đầu nghề mới, tôi đi bay với 1 SQ/TKS đương nhiệm bằng chiếc U–17
của PĐ–110. Anh này hướng dẫn cho tôi cách nhìn trên địa hình và
bản đồ, cách liên lạc vô tuyến với hệ thống vô tuyến trên phi cơ
(FM, UHF, VHF), rồi nào là đồng hồ cao độ, la bàn điện, la bàn
từ, nào là đồng hồ tốc độ, đồng hồ RPM, chân trời giả với viên
bi... ôi thôi tùm lum tà la. Và sau 1 chuyến thử gió, khi đáp
xuống tôi cầm một bọc đầy ắp làm sao mà chịu nổi khi ngồi trên
phi cơ cứ hết xoay bên này rồi lại ngó bên kia đến chóng mặt, rồi
các bố pilot cứ chống cánh quay vòng vòng để tôi quan sát; tôi
thấy nghề này coi bộ không khá với tôi rồi đó. Tối hôm đó tôi mệt
nhoài vì nôn ọe tới mật xanh, mật vàng.
*****
Thời gian “huấn luyện”, tôi phải theo
các “thầy” đi bay với U–17 để tập liên lạc với toán dưới đất, tập
chấm tọa độ khi toán cần xác định điểm đứng, rồi trong những
chuyến thả và rước toán, tôi monitor trên vô tuyến để biết cách
thức điều khiển và hướng dẫn phi cơ (trực thăng, gunship, cobra,
khu trục) khi thả hoặc rước toán. Từ trên cao nhìn xuống thấy
cảnh thả hay rước toán với những hoạt động nhịp nhàng của phi cơ
O–2, Cobra, trực thăng H–34 khiến tôi liên tưởng tới thời gian
trước đây, khi tôi được thả chắc cũng giống như thế này vì bài
bản thì cũng như nhau mà thôi. Từ trên cao, tôi nhìn thấy Cobra
bay lượn vòng quanh bãi (LZ) với cánh quạt một bên được sơn trắng
cho dễ quan sát, rồi sau đó chiếc H–34 chở toán tiến theo trục để
vô bãi rồi đáp xuống. Tôi dặt ống nhòm nhìn thấy toán nhảy ra
chạy vô bìa rừng, v.v. Lúc đó tôi có cảm giác thật an toàn khi
ngồi trong phi cơ trong khi các bạn bè bắt đầu cho 7 ngày lặn lội
trong rừng. Qua liên lạc giữa toán và phi cơ, tôi nghe giọng nói
của toán trưởng báo cáo toán xuống đất an toàn bằng một giọng nói
chỉ phát bằng hơi gió.
Sau vài ngày huấn luyện như thế, tôi
được chuyển qua bay với L–19 (O–1) cũng của PĐ–110, có nghĩa là
chỉ có tôi và Pilot và cũng có nghĩa là tôi phải làm việc một
mình với nhiệm vụ là liên lạc với các toán hành quân ở những mục
tiêu gần căn cứ xuất phát vì L–19 đâu có khả năng bay xa. Dạo này
tôi đã quen quen nên không bị say sóng nữa, nhờ đó cảm thấy đỡ
mệt vì “rải truyền đơn”. Tuy thế, lúc nào đi bay tôi cũng phải
thủ một túi giấy cho chắc ăn.
Cũng nói sơ qua về binh chủng của tôi
một tí!
Thiệt
ra tôi cũng không hiểu danh từ “Lôi Hổ” từ đâu mà có và có từ bao
giờ, chỉ biết rằng khi tôi về đơn vị thì biết là mình đang ở Lôi
Hổ và tôi cũng hãnh diện khi mọi người biết tôi là Lôi Hổ. Nghe
tên thì có vẻ dữ dằn, ghê góm thật cộng thêm những huyền thoại:
nào là trước khi đi nhảy được lãnh tiền tử trước, nào là lính này
có nhiệm vụ nguy hiểm và gan góc là: “chó chạy đường mòn”, có
nghĩa là khi vô căn cứ địch, tụi tôi có nhiệm vụ chạy trên đường
mòn để dụ địch xuất hiện rồi kêu máy bay tới dội bom, nào là lính
loại này “Sáng ăn phở ở Hà Nội, chiều uống cà phê ở Sài Gòn,
v.v.” Ôi thôi đủ thứ huyền thoại được tạo nên bởi những người
xung quanh cộng với các bố lính Biệt kích “nổ” thêm cho ra vẻ ta
đây, rồi các đơn vị bạn không biết nhiều về tụi tôi lại cho chúng
tôi thuộc “Phòng 7” của Bộ TTM, có vẻ như là “phản gián”. hoặc là
điệp viên 007 không bằng. Mà quả thật tụi tôi là “gián điệp” thật
vì với VC, chúng gọi tụi tôi là “điệp”, có nghĩa là gián điệp mỗi
khi toán tụi tôi được thả xuống. Tôi cũng có góp phần trong vụ
“nổ” này: Hồi mới ra trường, trong một lần về phép Sài Gòn sau 1
chuyến hành quân, tôi đi chơi bị 1 toán tuần cảnh hỗn hợp chận
xét giấy tờ dọc đường, trong đó có vài ba chàng SVSQ Thủ Đức. Tôi
bèn không đưa Chứng chỉ tại ngũ hay Căn cước quân nhân gì cả, mà
đưa cho các chàng này coi thẻ toàn tiếng Mỹ, trong dó có tên, cấp
bậc bằng tiếng Anh và một dọc số Serial Number, cuối hàng số này
là 3 chữ CIA, thế là các chàng nhìn tôi với vẻ khâm phục. Thật ra
tấm thẻ này chỉ là thẻ cấp phát cho các Biệt kích quân để ra vào
cổng doanh trại mà thôi, tôi lên văn phòng Đại Đội Thám Sát của
Mỹ lấy một tấm, bỏ vô máy chữ gõ như đã nói ở trên, và cũng chỉ
có thế mà thôi chứ đâu có dán hình ảnh gì.
Gọi là binh chủng chứ thật ra đơn vị
chúng tôi được coi như tương đương cấp Trung Đoàn so với BB, có
tên gọi nghe rất là hiền từ, trái ngược hẳn với nhiệm vụ mà chúng
tôi phải đảm trách: “Sở LIÊN LẠC/NHA KỸ THUẬT”, nghe có vẻ như là
lính văn phòng, chỉ chạy lông nhông để liên lạc các đơn vị với
nhau hay mang công văn, văn thư cho các nơi.
Xuất xứ của Sở từ hồi nào thì tôi không
rõ vì tôi đáo nhậm đơn vị mới sau này, năm 1969. Trong khi theo
tôi nghe nói thì Sở Liên Lạc được thành lập từ lâu lắm rồi và mãi
gần đây, theo bài viết trong bản tin “Gia Đình Nha Kỹ Thuật” của
Thiếu tá Emile, nguyên là Chánh văn phòng của Đại tá Đoàn văn Nu,
Giám Đốc NKT, tôi mới biết rõ thêm về xuất xứ của Sở Liên Lạc và
Nha Kỹ Thuật.
*****
Tiền
thân của Sở Liên Lạc là Sở Khai Thác Địa Hình, trực thuộc Phủ
Tổng Thống, do cố Đại tá Lê Quang Tung chỉ huy, chuyên phụ trách
về tình báo quốc nội cũng như quốc ngoại dưới sự chỉ đạo trực
tiếp của Cố Vấn Ngô Đình Nhu hay Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Trong
cơ cấu tổ chức của Sở, phòng E hay phòng 45 chuyên đặc trách các
hoạt động thu thập tin tình báo tại miền Bắc Vĩ tuyến 17 với các
hệ thống tình báo nằm vùng hay xâm nhập từ miền Nam hay từ Đệ tam
quốc gia. Phòng E hay 45 sau còn được gọi là SB (Sở Bắc).
Vào đầu năm 1963, Sở Khai Thác Địa Hình
được biến cải thành Bộ Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt với hai đơn vị
nòng cốt là Liên Đoàn 77 và Liên Đoàn 31 cũng do Đại tá Lê Quang
Tung làm Tư Lệnh. Sở Bắc vẫn còn tiếp tục hoạt động, nằm trong cơ
cấu tổ chức của BTL/LLĐB và vẫn duy trì phối hợp với cơ quan
Combined Studies của Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ. Sau cuộc chính biến
1/11/1963, Đại tá Lê Quang Tung bị sát hại, LLĐB đã được chỉ huy
bởi một số tướng lãnh và được dời ra Nha Trang. Kể từ lúc này, SB
được tách rời khỏi Binh chủng LLĐB, lấy tên là Sở Khai Thác thuôc
Bộ TTM, và vẫn duy trì các công tác đặc biệt. Vị Chỉ Huy Trưởng
đầu tiên của đon vị này là Đại tá Trần văn Hổ. Cơ quan MAAG, Cơ
quan Cố Vấn Quân Sự Hoa Kỳ, sau được cải danh xưng là MACV và một
bộ phận yểm trơ và cố vấn cho Sở Khai Thác được gọi là MACV–SOG
(Studies and Observation Group) hay Special Operations Group với
nhiệm vụ thi hành kế hoạch OP34A (Operation Plan) trên vùng đất
Bắc Việt.
Sở
Liên Lạc cũng được thành lập vào thời gian này và cũng trực thuộc
Bộ Tổng Tham Mưu (SLL/TTM). Sở này đảm trách các công tác xâm
nhập ngoại biên trên đất Lào và Cam Bốt. Các toán thám sát được
gọi là Lôi Hổ (Thundering Tiger) có nhiệm vụ thám sát ghi nhận
dấu vết hoạt động của địch, phá hoại các mục tiêu trọng yếu của
địch, chỉ điểm các mục tiêu cho Không quân oanh kích, v.v. Ngoài
ra trong các chuyến hành quân nhảy toán, nhiệm vụ bắt sống tù
binh CS là công tác hàng đầu cần phải thực hiện bất cứ lúc nào có
thể được vì tù binh là nguồn tin tức quý giá với tính chất xác
thực va sớm nhất trong lãnh vưc khai thác tin tức tình báo. Vị
Chỉ Huy Trưởng đầu tiên của SLL là Đại tá Hồ Tiêu gốc Sư Đoàn Dù.
Liên tiếp những vị chỉ huy sau đó cũng đều từ SĐND chuyển qua.
Bộ Chỉ Huy SLL đặt tại Sài Gòn, ngay
cạnh sân banh Quân Đội ở Tân Sơn Nhứt và ba Chiến Đoàn đồn trú
tại các khu vực khác nhau thích hợp với khu vực mục tiêu mà mỗi
Chiến Đoàn dảm trách:
1. Chiến Đoàn 1/SLL (CCN) đồn trú tại
Đà Nẵng.
2. Chiến Đoàn 2/SLL (CCC)
“Kontum” (còn được gọi là B–15)
3. Chiến
Đoàn 3/SLL (CCS) “Ban Mê Thuột” (được gọi là B–50)
Song song với các Chiến Đoàn này,
MACV–SOG cũng có cơ sở hành quân cấp toán riêng rẽ, cùng đồn trú
chung một doanh trại với Chiến Đoàn mà chúng tôi gọi đơn vị Mỹ là
“Phía Đối Nhiệm”. Tên gọi của Mỹ là CCN (Command and Control
North), CCC (Command and Control Central), CCS (Command and
Control South). Có nghĩa là hai đơn vị Mỹ–Việt cùng chia nhau khu
vực trách nhiệm dể thả toán vô những mục tiêu được cả hai BCH
phối hợp chọn lựa.
Sơ đồ tổ chức là như thế, còn thành
phần tham dự thì hầu hết chỉ là SQ, HSQ Cán Bộ, tức là lính của
QLVNCH đàng hoàng, có số quân, có Chứng Chỉ tại ngũ. Riêng hàng
ngũ binh lính thì được tuyển chọn tại địa phương nơi trú đóng và
được gọi là Biệt Kích Quân (SCU), tức là lính do Mỹ trả lương,
không thuộc quân số của QLVNCH và được gọi theo danh từ thông
dụng là Biệt Kích Mỹ. Ngoài một số lớn là người dân địa phương
đầu quân vào Biệt Kích, còn có một số khác là lính đào ngũ từ các
đơn vị của QLVNCH tình nguyện đầu quân vào đơn vị chúng tôi. Thì
cũng “lọt sàng xuống nia” thôi chứ đâu co mất mát đi đâu mà sợ.
Mỗi Chiến Đoàn gồm 1 Đại Đội Thám Sát
với từ 10 đến 12 toán, 1 Đại Đội An Ninh, 3 Đại Đội Trừ Bị. Mỗi
toán Thám Sát có từ 10 đến 12 người được chỉ huy bởi 1 SQ Toán
Trưởng, 1 HSQ toán phó và 10 Biệt Kích Quân. Một chuẩn úy ra
trường với khả năng là Trung đội Trưởng nhưng về binh chủng này
chỉ huy chỉ có một Tiểu đội mà thôi nhưng là 1 tiểu đội thiện
chiến với khả năng trihh sát, kinh nghiệm hành quân trong rừng
rất dày dạn. Tuy quân số là như thế nhưng mỗi lần hành quân chỉ
tham dự từ 6 đến 8 người mà thôi. Lý do: thay phiên nhau nghỉ. Vả
lại với hình thức hành quân cấp toán trong rừng Trường Sơn thì đi
càng ít càng tốt và càng thuận tiện cho phương tiện trực thăng
khi thả và rước. Đã có lần tôi dẫn toán đi nhảy chỉ có 4 người,
nghĩa là tôi, toán phó và 2 người lính BKQ nữa mà thôi. Lần đó
chúng tôi không mang theo máy truyền tin PRC–25 như mọi lần mà
mang một loại máy liên lạc cũng băng tần FM nhưng chỉ có kích
thước khoảng 8cm x 12cm, bỏ rất gọn trong túi áo trận. Nghe thì
có vẻ “hiu hắt” thật nhưng chúng tôi di chuyển rất thuận lơi, êm
thắm, nhanh chóng, chui rúc cũng dễ dàng, Nhiệm vụ của toán Lôi
Hổ là thám sát theo dõi, tìm kiếm dấu vết hoạt động của VC chứ
đâu phải để nghênh chiến nên đi càng ít càng khỏe và lỡ có tao
ngộ chiến hay bị địch theo dõi ngay từ đầu thì nổ súng xong là
“dzọt” ngay rồi sau đó giao lại cho Không Quân làm việc với VC ở
dưới đất. Nhiệm vụ của chúng tôi cũng tương tự như các toán Delta
của Binh chủng LLĐB, chỉ khác phạm vi hoạt động là các toán Delta
chỉ nhảy trong nội địa, còn chúng tôi nhảy bên kia biên giới
Việt–Miên–Lào.
Chiến Đoàn 1 XK, hay CCN, đảm trách khu
vực hoạt động vùng Thượng và Trung Lào, Khu vực này rất hiểm trở
vì toàn núi rừng dày đặc, lội cũng mệt mà vấn đề tìm bãi đáp (LZ)
cũng khó.
Chiến Đoàn 2 XK hay CCC đảm trách khu vực Hạ Lào bao gồm vùng Tam
Biên, và Đông Bắc Cam Bốt với Căn Cứ địa 701 và 702. Doanh trại
đóng tại thành phố Kontum, Căn cứ Xuất phát thì tùy từng mục
tiêu, thường là Dakto, Đức Cơ, Plei Djreng hay Lệ Minh. Đây là
các trại biên phòng của LLĐB mà chúng tôi sử dụng làm Căn Cứ Xuất
Phát để xâm nhâp qua bên kia biên giới vì các trại LLĐB đều có
sân bay để các loại phi cơ vận tải có thể đáp tiếp tế, do đó trực
thăng và phi cơ quan sát của chúng tôi dư khả năng sử dụng. Tại
đây cũng có nhiên liệu và đạn dược để refill sau mỗi chuyến vượt
biên giới để thả hay rước toán.
Tôi không biết tên gọi B–15 được xuất
phát từ đâu và từ bao giờ, nhưng ở Kontum khi được nói đến tên
gọi này là mọi người, quân cũng như dân, đều biết đó là tên đơn
vị Lôi Hổ đồn trú tại Kontum, bên kia sông Dakbla, từ hướng
Pleiku đi lên trước khi vào thành phố Kontum. Tôi thuộc CĐ2XK/SLL
kể từ ngày ra trường cho đến khi bị thương vì SA–7 mới thuyên
chuyển về CĐ1XK/SLL, lúc này đang đồn trú tại Biên Hòa, quãng
4/74 cho đến ngày sập tiệm. Tính ra tôi đã phục vụ ở CĐ2XK/SLL
được hơn 5 năm. Do đó tôi am tường hoạt động của đơn vị này nhiều
hơn.
Chiến
Đoàn 3 XK: hay CCS, đảm trách vùng Bắc Cam Bốt trở xuống. Căn cứ
Xuất Phát là trại Tiêu A Ta và Quản Lợi.
Vào quãng năm 1964–65, Sở Khai Thác
được cải danh là Sở Kỹ Thuật/TTM và sau đó không bao lâu Sở này
được nâng lên là Nha Kỹ Thuật/TTM, được chỉ huy bởi một Giám Đốc,
có cấp số tương đương là Tư Lệnh Sư Đoàn. Danh xưng này chỉ là vỏ
bọc của tên gọi được Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đặt là “Bộ Tư
Lệnh Chiến tranh Ngoại Lệ”. (Unconventional Warfare Headquarter).
Nha Kỹ Thuật lúc đó gồm các Sở như:
– Sở Liên Lạc
– Đoàn 11 và Đoàn 68
– Sở Không Yểm (liên quan đến Không
Quân)
– Sở
Phòng Vệ Duyên Hải (liên quan đến HQ và Người Nhái)
– Sở Tâm Lý Chiến (đảm trách các đài
Phát thanh Mẹ Việt Nam, Gươm Thiêng Ái Quốc, và các nghiệp vụ về
Tâm Lý Chiến)
– Trung Tâm Huấn Luyện Quyết Thắng [sau này là Yên Thế] tại Long
Thành
– Sở
Công Tác (Gồm Đoàn 11 và Đoàn 68 đã có từ trước cộng thêm Đoàn
71, 72, 75 mới thành lập vào quãng năm 1971 sau khi binh chủng
LLĐB giải tán.
*****
Sau vài tuần huấn luyện, tôi được thả
“solo” trong một chuyến thả toán. Tôi phải đảm trách toàn bộ công
việc từ A đến Z. Trong “phi vụ” đầu tiên đương nhiên tôi cũng hơi
bối rối nhưng mọi chuyện trôi qua suôn sẻ. Từ đó coi như tôi là
một SQ Tiền Không Sát chính thức của đơn vị.
Trong giai đoạn này, vào thời điểm
1970–1972, đơn vị chúng tôi còn hoạt động chung với Mỹ nên toàn
bộ đều được MACV–SOG yểm trợ; từ vũ khí, quân trang, quân dụng
đến tiền công tác phí, kể cả toàn bộ phương tiện yểm trơ cho các
chuyến hành quân. Ngoài số lương chúng tôi lãnh theo tiêu chuẩn
của QLVNCH thuộc binh chủng Dù (có thêm tiền phụ cấp Bằng Nhảy
Dù), mỗi tháng chúng tôi còn lãnh thêm một số tiền gọi là “công
tác phí” mà tôi không nhớ chính xác là bao nhiêu nhưng vào thời
đó, số tiền lương lãnh hằng tháng cao hơn các bạn cùng cấp bậc ở
BB rất nhiều, gần gấp đôi. Còn các BKQ thì lãnh lương trực tiếp
của Mỹ.
Vì
chúng tôi phải nhảy vào những vùng hoạt động của địch ở bên kia
biên giới nên phương tiện vận chuyển và yểm trợ phải là Không
Quân. Phi Đoàn 219 Trực thăng, Phi Đoàn Quan sát 110 (hai PĐ này
đồn trú ở Đà Nẵng), Phi Đoàn Quan Sát 114 ở Nha Trang. Cứ sau hai
tuần biệt phái thì thay đổi biệt đội một lần. Các pilot của Biệt
đội cũng được hưởng tiền công tác phí, cứ mỗi lần vượt biên giới
là mỗi người trong phi hành Đoàn lãnh 3,000 đồng; riêng trực
thăng nếu trong một lần vượt biên giới mà làm hai nhiệm vụ, nghĩa
là hai lần đáp là lãnh gấp đôi. Do đó các nhân viên phi hành
thuộc PĐ–219 sống rất đế vương. Trong các canh sập xám hằng đêm,
ăn thua được chung theo cách đó, cọc tiền cho nhanh chứ hơi đâu
mà ngồi đếm từng tờ cho mất thì giờ. Phương châm “Thì giờ là cờ
bạc” được triệt để áp dụng.
Các phi vụ Khu Trục thì tùy theo từng
nhu cầu và tùy theo khu vực hành quân, các Trung tâm Không Trợ sẽ
điều động đưa dến cho chúng tôi. Ứng trực thường trực nhất thì có
PĐ–530 thuộc SĐ6KQ. Trong trường hợp cấp bách, đôi khi chúng tôi
sử dụng các phi vụ của Mỹ xuất phát từ Đệ Thất Hạm Đội đang ứng
trực trên không phận hoặc điều động khu trục phản lực từ Thái
Lan. Các phi vụ này đều thông qua yêu cầu của FAC Mỹ mà chúng tôi
bay cùng.
Ngoài phi cơ quan sát của PĐ–110, đơn vị tôi còn được tăng phái
mỗi ngày hai phi cơ quan sát của Mỹ là Phi cơ quan sát O–2 và
OV–10. Hai Phi đoàn này đồn trú trong phi trường Pleiku và chỉ
cất cánh lên Kontum để bốc Tiền Không Sát khi được gọi. Phi cơ
OV–10 là loại phi cơ quan sát tối tân và lợi hại hơn O–2 vì hoạt
động bởi 2 động cơ bán phản lực, được trang bị Mini gun và phóng
lựu cùng với 2 dàn phóng rocket. Vì vùng Hạ Lào nhiều rừng núi
nên loại phi cơ này hoạt động rất hữu hiệu, nhất là trong trường
hợp toán bị đụng, phi cơ OV–10 có thể bắn yểm trợ trong những
giây phút đấu tiên để uy hiếp tinh thần địch trong khi chờ Khu
trục đến yểm trợ. Năm 1971, trong chiến dịch Lam Sơn 719 ở vùng
Hạ Lào, các Quan Sát Viên của PĐ–110 được tăng phái cho Mỹ để bay
với pilot Mỹ trên phi cơ OV–10, các anh đã kể lại rằng nó nhào
lộn khiến chịu không nổi, phải “rải truyền đơn”.
Khu vực Hạ Lào này được giao phó cho
các toán Mỹ phụ trách, thỉnh thoảng mới có toán VN hành quân.
Quân nhân Mỹ vốn to con nên mỗi lần đi nhảy, họ trang bị hỏa lực
vũ khí rất mạnh. Cây Đại liên M–60 mà họ cầm giống như cầm cây
tăm. Ngoài ra có toán còn chơi súng cối 60ly không có bàn tiếp
hậu nên mỗi lần đụng dộ thì VC chỉ có từ chết tới bị thương.
Thường thường các toán Mỹ được thả hay rước bằng phi cơ UH của
Mỹ, do pilot Mỹ lái, các pilot này không chơi bạo như pilot 219,
hơn nữa loai UH là loại tối tân hơn nên bay cũng phải theo bài
bản hơn, do đó các toán Mỹ vẫn khoái được rước hay thả bởi
PĐ–219. Có một lần khi tôi còn đi nhảy toán, chiếc H–34 xuống thả
toán thì bị chém cây nên nằm ỳ luôn, tụi tôi nhảy ra ngoài nằm
xung quanh bãi để giữ an ninh trong khi một chiếc H–34 khác nhào
xuống, gác một bánh xe lên rotor của chiếc nằm dưới đất để phi
hành đoàn leo lên.
Phi cơ H–34, có tên gọi là Sikorsky, là
loại trực thăng bay bằng động cơ nổ nên nhiều khả năng “chịu đạn”
hơn là UH, do đó rất thích hợp trong nhiệm vụ thả, rước các toán.
Loại phi cơ này chắc hẳn được sử dụng từ Đệ Nhị Thế chiến nên
trông có vẻ già cỗi, nặng nề, chậm chạp nhưng lại rất hữu dụng
cho chúng tôi. Nhìn vào cockpit và nơi chở quân thấy sao bầy hầy,
toàn dầu nhớt lem luốc, lọc xà lọc xọc; khi bay thì rung chuyển
ầm ĩ. Có khi đang bay, chúng tôi bị dầu nhớt không biết từ đâu
nhiễu xuống đầu hay quần áo. Vì là loại phi cơ cổ lỗ nên tôi thấy
pilot vật lộn với nó hơi mệt hơn loại UH sau này. Có lần tại Căn
Cứ Xuất Phát, một anh bạn pilot kêu tôi lên ngồi ghế Co–Pil rồi
quay máy cất cánh; khi đủ cao độ, anh bạn kêu tôi cầm stick bay
thử nhưng chỉ được vài phút là tôi trả lại cho hắn vì cần lái quá
nhạy nên mới lần đầu tôi giữ chưa quen nên nhích cần lái có một
chút mà phi cơ lắc lư như đưa võng.
*****
Đơn vị B–15 của chúng tôi có hai sân
bay cho Trực thăng. Một nằm ngoài doanh trại ở hướng Nam và một
nằm trong doanh trại. Các H–34 của Biệt Đội 219 thường đậu trong
sân này cho an toàn cả ngày lẫn đêm; còn phi cơ quan sát của Biệt
Đội 110 thì đậu ngoài phi trường Kontum. Nhân viên phi hành và
nhân viên kỹ thuật của 2 Biệt Đội thì sống trong doanh trại chung
với chúng tôi nên các sinh hoạt như ăn nhậu, bài bạc... đều sinh
hoạt chung với nhau nên tình cảm gắn bó như cùng một đơn vị mặc
dù khác quân chủng. Mỗi khi trở lại Kontum sau hai tuần biệt phái
ở các Chiến Đoàn khác mà nghe tin có thằng mất tích hay tử trận
các bạn KQ cũng buồn như chính nỗi buồn của chúng tôi; hoặc có
những lần nghe tin một pilot quen biết của PĐ–219 hay PĐ–110 bị
bắn rớt trong một chuyến hành quân nào đó hay bị tai nạn đụng
nhau bỏ mạng, chúng tôi cũng đau lòng, tiếc rẻ. Có khi ngồi câm
lặng bên ly rượu, để mặc cho nước mắt tuôn rơi với những hồi
tưởng thời gian sống bên nhau trước đây. Rồi cứ thế, ly này tiếp
theo ly trước cho đến khi say mèm.
Hằng ngày, nếu có toán chuẩn bị xâm
nhập, các pilot trực thăng VN cũng như CHT Căn Cứ Xuất Phát,
SQ/TKS cùng với Ban 2, 3 và toán trưởng, toán phó cùng tham dự
tái thuyết trình để có cùng một khái niệm về cuộc đổ quân sắp
thực hiện ngõ hầu phối hợp cho được nhịp nhàng. Sau đó 3 trực
thăng H–34 sẽ chở toán Hành quân cùng với các thành viên của CCXP
và toán trừ bị bay lên Căn Cứ Xuất Phát và nằm chờ.
Trong khi đó tôi liên lạc với Phi Đoàn
Quan Sát Mỹ ở Pleiku qua tần số vô tuyến dể request phi vụ và hẹn
giờ để bốc tôi tại Kontum. Khi phi cơ O–2 gần đáp, quãng 10, 15
phút trước, pilot O–2 báo cho tôi biết, thế là tôi xách “đồ nghề”
lên xe ra phi trường. Tuy là Bộ Binh, nhưng với nhiệm vụ “bay
bổng”, tôi cũng được trang bị như một quan sát viên Không quân
chính hiệu. Cũng áo lưới mưu sinh, nón bay, cũng mang dù để nhảy
ra khi phi cơ gặp nạn. Về mục này thì Không Quân Mỹ rất cẩn thận
hơn hẳn pilot VN. Trước khi lên phi cơ phải mặc dù đàng hoàng; dù
này được cất giữ trong phòng điều hòa không khí hẳn hoi và được
kiểm soát định kỳ đều đặn. Còn mấy bố pilot VN thì cũng xách dù
ra phi cơ nhưng là để kê lưng chớ không bao giờ mặc vào theo đúng
qui định. Có những lần bay về trễ nên phải đáp ở phi trường
Pleiku vì trời tối, phi trường Kontum không có đèn đáp trên phi
đạo; tôi vào barrack của pilot O–2 ngủ tạm qua đêm; sáng hôm sau
lên phi cơ về lại Kontum. Khi bắt đầu ra đi bay, công việc của
pilot Mỹ trước hết là vô phòng chứa dù để lấy dù cho mình, tôi
cũng phải đi theo để lấy cho tôi. Ra đến bãi đậu phi cơ, họ lấy
check list ra và làm thủ tục tiền phi rất là cẩn thận, họ bắt đầu
check từ mục đầu tiên đến mục cuối cùng. Sau khi ngồi vào ghế lái
cũng thế, họ cũng làm theo check list để kiểm soát các phi cụ
trước khi quay máy. Bao nhiêu là nút, đèn đều được vặn thử, bấm
tới bấm lui rồi mới ra hiệu cho kỹ thuật chuẩn bị cắm bình vào
quay máy. Sau đó lại cũng theo check list để thử đồng hồ RPM,
xăng, nhiệt độ nhớt máy, hạ flap lên xuống, thử tín hiệu đóng mở
gear, ôi thôi đủ thứ trước khi taxi ra phi đạo. Mà đã ngồi lên
phi cơ là phải có helmet đàng hoàng chứ không được sử dụng
headset và phải mặc dù đầy đủ, pilot có quyền từ chối không bay
với bạn nếu bạn không tuân hành luật lệ an phi qui định.
Trong khi đó, nếu đi bay với pilot quan
sát VN thì khi ra ụ, khỏi cần check list gì cả, ông quan pilot VN
kéo 2 cục gỗ chận bánh, đi một vòng vừa rờ rờ vừa ngó các bộ
phận, gỡ các bao chụp che ống gió tốc độ, v.v. là xong. Hay là
tại vì chiếc O–1 hay U–17 quá đơn giản nên không có gì nhiều để
phải coi theo check list cho khỏi quên hay sơ sót?
Trực thăng H–34 cũng thế. Các ông quan
tàu bay leo lên ghế ngồi xong là đưa tay vặn mở tùm lum nút một
cách máy móc rồi quay máy. Nhìn giàn phi cụ ở các board trên đầu,
trước mặt, ôi thôi sao mà đủ thứ nút, đủ thứ màu. Tôi nhìn mà
thầm nghĩ làm sao mà nhớ cho hết công dụng hay chức năng của
chúng? Ấy thế mà bay cứ phom phom mà lại còn bay đẹp nữa chứ!
Khi đã sống ở Mỹ, tôi mới thấy người Mỹ
rất tôn trọng quy tắc, nhất là những nguyên tắc về an toàn trong
mọi lãnh vực, lý do là để con người làm theo những qui định đó để
khỏi bị tai nạn lao động hay nghề nghiệp có thể gây thương tật
hay chết người. Từ đó phải công nhận là phe ta có máu ẩu và chơi
bạo. Mà cũng nhờ chơi bạo nên mới làm nên những kỳ tích cũng như
những giai thoại nổi tiếng khiến Mỹ cũng phải kiêng nể.
*****
Phi cơ O–2 đáp xuống phi trường Kontum,
thường dậu tại Parking của Air Việt Nam, tắt máy chờ tôi ra để
thuyết trình sơ khởi về khu vực hoạt động, nhiệm vụ, những yêu
cầu về yểm trợ, v.. Xong là leo lên phi cơ quay máy cất cánh,
trực chỉ mục tiêu.
Từ phi cơ L–19, U–17, bây giờ ngồi trên
phi cơ O–2 tôi thấy có nhiều sự khác biệt; tối tân hơn, bay nhanh
hơn, nhiều phi cụ hiện đại hơn, an toàn hơn và phi cơ cũng nặng
nề hơn. Vị trí ghế ngồi của Quan sát viên ngang với ghế pilot nên
quan sát mục tiêu và những hoạt động xung quanh và phía trước dễ
dàng hơn là L–19 cũng như quan sát được những thao tác khi cất
cánh và đáp của pilot để mà học hỏi. Có lần tôi bay L–19 với Bắc
Đẩu 65 (Pilot PĐ–118, một nhân vật trong bài XÁ GÌ SA–7), khi cất
cánh tại phi trường Kontum, tôi ngồi ghế sau của Quan sát viên,
vậy mà BĐ–65 bảo tôi tống ga tập cất cánh một mình hắn sẽ kèm cho
tôi. Nhìn tới phía trước tôi chỉ thấy cái lưng cuả pilot mà thôi
thì làm sao mà giữ phi cơ chạy thẳng theo phi đạo được nên tôi la
lên: “Thôi đi cha! Làm như tôi là IP không bằng mà ông kêu tôi
cất cánh khi ngồi ghế sau như vầy!”. Với phi cơ O–2, cũng có vài
lần pilot Mỹ để tôi cất cánh và đáp tại phi trường Pleiku. Nhờ
thường xuyên quan sát thao tác khi cất và hạ cánh của pilot và
phi cơ O–2 là loại phi cơ có bánh mũi nên cất cánh dễ dàng hơn và
khi đáp cũng không đến độ “Cóc nhảy”.
Với 2 động cơ cánh quạt, một phía trước
mũi và một phía sau đuôi, phi cơ quan sát O–2 có tốc độ bình phi
nhanh hơn, hính như 120 hay 140 miles/giờ (tôi không nhớ rõ),
nhưng tôi cảm thấy có vẻ nặng nề mỗi khi cất cánh. Pilot loại phi
cơ này thường bay chung với tôi hằng ngày, qua nói chuyện tôi
được biết họ đã được chuyển từ các loại phi cơ fix–wing khác sang
bay phi cơ O–2 như: B–52, C–130, F–102... có cấp bậc từ thiếu tá
đến trung úy. Ngoài khả năng điều khiển phi cơ, họ còn kiêm luôn
nhiệm vụ của một quan sát viên để chấm tọa độ định điểm đúng khi
toán yêu cầu, hướng dẫn khu trục oanh kích, v.v. Do đó trong suốt
thời gian làm việc với loại phi cơ này, tôi học hỏi được rất
nhiều. Các pilot Mỹ mà tôi bay cùng đã tận tình chỉ dẫn và giải
thích cho tôi thế nào là lực G, thế nào là vertigo, các hoạt động
của các phi cụ trên phi cơ như đồng hồ TACAN, hệ thống định vị
trí hiện tại của phi cơ dựa theo tín hiệu từ một đài phát, kỹ
thuật đáp theo hướng dẫn của đài kiểm soát qua những phi cụ của
phi cơ... Kỹ thuật này được sử dụng khi trời mù, tầm nhìn bị hạn
chế hoặc đáp đêm không đèn. Thỉnh thoảng trong những lần về đáp ở
phi trường Pleiku họ vẫn thực tập ôn luyện mặc dù đang là ban
ngày. Do đó họ nhờ tôi quan sát phi cơ xung quanh trong khi họ cứ
chăm chú vô phi cụ để điều khiển phi cơ hạ cánh, từ lúc còn cách
xa phi trường quãng 10 miles cho đến khi approach rồi từ từ giảm
cao độ, giữ đúng hướng heading với phi đạo cho đến cuối cùng là
touch down.
Trong khi chúng tôi đến trên vùng mục tiêu, tôi hướng dẫn cho
pilot thấy được bãi đáp dự định sẽ thả toán và đồng thời quan sát
toàn vùng để tìm xem có gì khả nghi hay không cũng như check thời
tiết trên vùng; nếu thời tiêt tốt, tôi sẽ gọi về CCXP để cho toán
chuẩn bị lên đường trong khi pilot gọi về Phi Đoàn Cobra để
request phi vụ, cho điểm và giờ hẹn để họ đến gặp chúng tôi.
Trong thời gian chờ đợi các phương tiện trên đường đến với chúng
tôi, chiếc O–2 bay ra khỏi vùng để không tạo sự nghi ngờ cho địch
ở dưới đất.
Tôi xin nói qua về giai đoạn chuẩn bị hành quân của toán:
Sau khi toán được Ban 2, ban 3 thuyết
trình về mục tiêu với nhiệm vụ, tình hình địch trong vùng, phương
tiện yểm trợ, v.v. Toán trưởng phác họa sơ qua về ý định hành
quân, lộ trình di chuyển của toán và đi không thám. Toán trưởng
sẽ đi với TKS bằng phi cơ U–17 lên vùng mục tiêu để quan sát khu
vực sẽ hoạt động, tìm LZ chính, LZ phụ, đồng thời nếu có thể được
thì chụp hình bãi đáp. Sau đó là chuẩn bị lãnh thực phẩm khô, vũ
khí thích hợp với nhiệm vụ, quân trang, quân dụng cần thiết; nói
chung là tất cả những gì toán cần cho cuộc hành quân (thí dụ nếu
toán trưởng có ý định trang bị vũ khí VC thì toán sẽ lãnh súng
AK, dây đạn hoặc súng nhỏ có gắn hãm thanh dùng để bắt sống,
v.v.) Trong thời gian tôi còn nhảy toán, tôi vẫn thích sử dụng
AK, tuy hơi nặng hơn CAR–15 nhưng được cái là nếu có mưa gió hay
súng bị ướt thì khi bắn vẫn không bị trở ngại tác xạ, kế đó là
tiếng AK nổ nghe ròn rã và chát chúa hơn. Tôi vẫn thường dùng AK
báng xếp, hình như là AK–49 thì phải, cái tiện kế đó là khi mở
khóa an toàn để tác xạ thì với AK chỉ cần kéo xuống một nấc là nổ
liên thanh, còn CAR–15 thì phải kéo 2 nấc.
Sau vài ba ngày chuẩn bị, đến ngày N,
Toán trưởng và Toán phó sẽ tái thuyết trình với sự tham dự của
CHT, Ban 2, ban 3, TKS và các Trưởng phi cơ H–34. Toán trưởng sẽ
thuyết trình về ý định di chuyển, hành động trong thời gian hành
quân và có những yêu cầu về yểm trợ, cách thức thả như thế nào...
Trong buổi tái thuyết trình này, Toán trưởng cũng trình bày hình
ảnh bãi đáp mà mình đã đi không thám chụp được để chiếc trực
thăng thả toán có khái niệm về hình ảnh LZ sẽ đáp xuống.
*****
Tất cả mọi phương tiện trên đường đến
điểm hẹn và qua truyền tin, họ báo cho chúng tôi biết còn khoảng
bao lâu nữa thì đền. Sau khi đã nhận diện được nhau và liên lạc
vô tuyến với nhau tốt, phi cơ O–2 dẫn vào khu vưc mục tiêu và bắt
đầu làm việc. Tất cả các loại phi cơ tham dự đều monitor trên
cùng một tần số UHF để theo dõi.
Trước hết, chúng tôi liên lạc với
Cobra, báo cho họ biết là sẽ bingo chỉ cho họ thấy LZ sẽ thả toán
xuống Sau khi họ nhìn thấy phi cơ O–2, chúng tôi nhào xuống thấp,
bay ngang LZ và lắc cánh để xác định đúng vị trí; nếu họ đã nhận
ra được bãi đáp là nhào xuống bay vòng vòng quanh LZ để quan sát.
Trong lúc này, 3 chiếc H–34 vẫn còn ở trên cao.
Lấy LZ làm tâm điểm, hai chiếc Cobra
bay vòng vòng từ ngoài vào trong để quan sát xem tình hình hoạt
động của địch ở dưới đất. Sau khi ghi nhận là an toàn, họ báo cho
H–34 hạ cao dộ để đáp. Chiếc H–34 số 1 chở toán, cắt ga, lượn vài
vòng xoắn ốc trong thế rơi tự do, chỉ vài giây sau là đã xuống
thấp, lấy lại vòng quay để vào trục vô bãi đáp để thả toán. Sau
khi chạm đất, toán nhảy ra và chạy vào bìa rừng, thế là chiếc
H–34 cất cánh bay lên cao cùng với hợp đoàn, làm orbit để chờ
toán di chuyển. Sau khi toán báo cáo là an toàn, tất cả mới rời
vùng chỉ còn lại chiếc O–2 là còn trên vùng đề ứng trực cho toán
tiếp tục di chuyển. Sau khoảng nửa giờ, toán báo cáo an toàn trên
đường di chuyển, chúng tôi mới rời vùng. Coi như đã xong nhiệm vụ
thả toán xâm nhập.
Phần nhiều các mục tiêu là ở phía Bắc
Cam Bốt, cách xa biên giới hàng trăm dặm và chúng tôi không có
đặt đài tiếp vận cho vùng này nên ngày 2 lần phải có phi cơ lên
vùng để nhận báo cáo của toán. Thường thường phi cơ U–17 đảm
trách công việc này; nếu ngày nào có toán đi không thám chuẩn bị
nhảy thì vừa không thám vừa liên lạc luôn. Cách xa mục tiêu hàng
chục dặm đã có thể liên lạc được với nhau nên sau khi nhận được
báo cáo của toán, phi cơ U–17 bay thẳng luôn chứ không bay vòng
vòng trên mục tiêu để có thể khiến cho địch nghi ngờ. Với giọng
thì thào qua vô tuyến, người nhận phải chú ý lắng nghe lắm mới có
thể ghi được nội dung công điện để chuyển về nhà. Nếu mọi chuyện
vô sự thì coi như xong nhiệm vụ liên lạc, còn nếu toán có biến cố
gì xảy ra thì tùy theo yêu cầu của toán để giúp đỡ ngay tức khắc
như: định tọa độ đang đứng, tìm bãi đáp rồi cho hướng di chuyển
đến, quan sát phía trước trên đường tiến quân của toán... Riêng
trường hợp toán bị đụng thì tùy theo tình trạng hiện tại của toán
để yểm trợ, nhưng điều đầu tiên là báo về căn cứ để BCH định
liệu. Trường hợp nguy cấp hơn như bị thương, thất lạc... là TKS
phải request phi cơ O–2 lên tiếp ứng ngay. Ngay khi cất cánh,
chúng tôi request phương tiện yểm trợ để có thể cùng có mặt trên
mục tiêu để kịp thời yểm trợ cho toán. Thông thường là phải mất
khoảng một giờ, trong thời gian này phi cơ U–17 vẫn hiện diện
trên mục tiêu để giữ liên lạc với toán cho đến khi TKS bắt liên
lạc được với toán thì mới rời vùng.
*****
Căn cứ Xuất Phát của đơn vị tôi dặt tại
trại LLDB Plei Djereng (sau được đổi tên là Lệ Minh), nằm phía
Tây Pleiku gần biên giới Việt–Miên. Đây là một trong những trại
biên phòng thuộc Toán A trong hệ thống tổ chức của Binh chủng
LLĐB nằm dọc theo biên giới Việt–Miên–Lào. Lực lượng đồn trú
khoảng một Tiểu Đoàn Dân Sự Chiến Đấu (CIDG) được chỉ huy bởi SQ,
HSQ Cán Bộ LLDB Việt Nam, phối hợp với SQ, HSQ Cán Bộ LLĐB Hoa
Kỳ. Đơn vị chúng tôi được sắp xếp cho một góc trại với phòng ốc
để làm BCH nhẹ và nghỉ ngơi.
Mỗi trại đều có một phi trường dùng cho
các loại phi cơ vận tải đáp phi đạo ngắn như C–123, C–130 hay
Caribou có thể đáp để tiếp tế hay chuyển quân. Như quý vị đều
biết, trước đây những gì có dính dáng đến Mỹ là rất đầy đủ, dồi
dào về quân trang, quân đung, thực phẩm, xăng dầu, đạn dược, v.v.
Vì thế tuy là một trại nằm sát biên giới nhưng không thiếu thứ gì
cả, cho nên đơn vị chúng tôi đặt Căn Cứ Xuất Phát tại đây để tiện
việc thả toán sâu trong đất Cam Bốt và để các loại phi cơ của đơn
vị ứng trực hằng ngày hễ có đụng chuyện là có thể cất cánh ngay.
Nhiên liệu và đạn dược cho phi cơ cũng đều có sẵn để sử dụng khi
cần đến, khỏi phải bay về Pleiku.
Mỗi ngày nếu không có toán nào chuẩn bị
xâm nhập thì các loại phi cơ đều bay lên CCXP để ứng trực. Trực
thăng H–34 chở thêm toán ứng trực, BCH của CCXP gồm sĩ quan CHT,
nhân viên truyền tin, vài người lo việc ẩm thưc cho tất cả. Thông
thường, nhiệm vụ của CCXP là theo dõi và ghi nhận những báo cáo
của toán được chuyển về qua chiếc U–17 đi liên lạc với toán, rồi
chuyển về Chiến Đoàn. Nếu hoạt động của toán đang hành quân vẫn
bình thường an toàn thì sinh hoạt của CCXP rất là nhàn hạ. Ngoài
chiếc phi cơ quan sát đang bay để liên lạc với toán, tất cả nhân
viên phi hành của các loại phi cơ khác chỉ có ăn, ngủ, binh xập
xám, v.v. Với cảnh “tiền đồn heo hút” nơi biên giới thì đâu có gì
hấp dẫn. Leo lên nóc hầm nhìn chung quanh chỉ thấy rừng núi. Nhìn
về phía Đông, hướng về Pleiku, thì chỉ thấy đồng bằng ngút ngàn
lô nhô vài ngọn đồi trọc thấp lè tè. Quay về hướng Tây, bên kia
là vùng đất Cam Bốt với cây rừng rậm rạp, núi chập chùng về phía
cực Bắc Cam Bốt. Ở đó địch cò hai Căn cứ 701 và 702 dùng làm nơi
trú quân, huấn luyện, kho tàng vũ khí và lương thực; và đó cũng
là mục tiêu để thả toán chúng tôi vào thám sát, ghi nhận dấu vết
hoạt động của địch. Ngoài ra chúng tôi còn có những mục tiêu dọc
theo sông Tonlé San chạy ngoằn ngoèo về hướng Tây để theo dõi
hoạt động chuyển quân của cộng sản Bắc Việt và Khờme đỏ. Mục tiêu
xa nhất về hướng Tây Cam Bốt là sông Tonlé Kong, chảy theo hướng
Bắc–Nam, nơi mà thỉnh thoảng cũng có thả toán để theo dõi hoạt
động trên sông. Sở dĩ nói là xa nhất vì đến đây là tầm hoạt động
cuối cùng của phi cơ H–34. Toán được thả hay rước tại những mục
tiêu này phải được thực hiện nhanh chóng vì lượng nhiên liệu
không đủ để bay về nếu thời gian kéo dài thêm. Trong thời gian
còn nhảy toán, tôi đã một lần xâm nhập vùng này. Chuyến hành quân
thật là nhàn hạ như là đi picnic vậy! Sau hai ngày xâm nhập, toán
tôi di chuyển ra tới bờ sông. Chúng tôi tìm một lùm bụi sát bờ
sông để nằm quan sát. Suốt thời gian còn lại, chúng tôi quan sát
hoạt động trên sông và bên kia bờ. Cảnh vật cũng giống vùng thôn
quê Việt Nam; cũng tiếng người gọi nhau, thuyền chèo lên xuống
bên kia bờ, cũng tiếng trâu bò rống, cũng những đụn rơm... những
hình ảnh yên ả thanh bình. Còn phía bờ sông có chúng tôi hiện
diện thì cũng yên lặng, chỉ thỉnh thoảng có tiếng súng nổ hình
như chúng đi bắn chim chơi chứ không có hoạt động nào đáng kể.
Bình lặng đến độ chúng tôi nấu nướng ngày ba bữa như là đang đi
picnic, cũng lai rai cà phê thuốc lá. Tiếc là không có lưỡi câu
để câu cá chơi giải khuây. Hằng ngày chúng tôi lần lượt luân
phiên cởi quần áo mò xuống nước ngâm mình lặn hụp tại chỗ cho
mát. Lúc chuẩn bị hành quân, chúng tôi nai nịt rất là cẩn thận để
đề phòng mọi thứ trong rừng: nào là áo nỉ trong cùng để ban đêm
chống lạnh mà không cần đắp mền, như vậy là ba lô nhẹ được thêm
một tí vì không phải mang theo mền poncho liner; nào là băng keo
quấn hai tay áo và hai ống quần để sâu bọ, đỉa, vắt không chui vô
người. Với những thứ lỉnh kỉnh như vậy, chúng tôi vẫn giữ y
nguyên từ lúc lên phi cơ đi nhảy cho đến lúc trở về; có nghĩa là
suốt bảy ngày hành quân, chúng tôi không hề tắm rửa, đánh răng,
rửa mặt, v.v. cộng thêm với bùn đất lầy lội của rừng núi với
những cơn mưa rừng tầm tã; có thể nói chúng tôi là loại lính ở dơ
nhất của QLVNCH. Thế mà trong chuyến hành quân ven sông này chúng
tôi được tắm rửa hằng ngày thì lý thú quá đi chứ phải không các
bạn. Đi picnic chứ đâu phải đi hành quân!
Trước đây khi còn đi toán, tôi cũng đã
từng dẫn toán lên đây nằm ứng trực. Một ngày sinh hoạt ở CCXP,
nếu mọi chuyện bình an vô sự, thì thật là dài và chán. Cứ nằm
ngủ, thức dậy ăn, chơi domino, binh xập xám hay leo lên nóc lô
cốt khi trời mát để nhìn trời hiu quạnh với rừng núi thăm thẳm về
hướng biên giới. Đầu tháng rủng rỉnh tí tiền thì mua bia, rượu
lên đây lai rai. Mồi nhậu có khi là thịt nai săn được, được chế
biến đủ thứ: Xào lăn, bí tết, lúc lắc, ướp cà ri nướng, tái
chanh, v.v. ôi thôi món nào cũng hấp dẫn để mà lai rai suốt ngày.
Có những chiều mưa, ngồi trong hầm nhìn trời xám xịt, mưa cứ rả
rích trong cảnh quạnh hiu của núi rừng! Sao mà buồn thế. Tôi
không cảm nhận được cái hay của bản nhạc “Chiều mưa biên giới”
chút nào cả. Không hiểu khi sáng tác bản nhạc này, nhạc sĩ Nguyễn
Văn Đông có ngồì ở “tiền dồn heo hút” như tôi hiện nay hay không?
Sau cơn mưa, đường sá đất đỏ lầy lội, trơn trợt; một bước chân
nhấc lên kèm theo một đống sình đất dỏ nặng chình chịch dính theo
giày, như vậy đó thì mê sao nổi!
Thỉnh thoảng vào cuối ngày, trước khi
bay trở về Kontum; trực thăng H–34 làm 1 chuyến đi săn nai. Phi
cơ bay dọc theo suối, khi thấy bụi rậm nghi ngờ có nai thì hover,
cây cỏ rạp xuống. nai sẽ phóng chạy. Thế là trực thăng cứ tà tà
bay theo, cây đại liên cứ tà tà nã đạn cho đến khi con nai qụy
xuống; rồi dùng hoist câu về CCXP. Mọi người phụ khiêng vứt lên
phi cơ cho được kín đáo để chở về Kontum. Với Quân Chủng KQ, việc
dùng phi cơ săn nai là điều cấm kỵ theo lệnh của Bộ TTM. Vi phạm
là lãnh tù như chơi. Nhưng nơi chúng tôi ở là vùng đèo heo hút
gió gần biên giới, có ma nào ngoài chúng tôi ra đây đâu mà phải
sợ. Hơn nữa pilot 219 thì còn sợ ai! Nhưng dù sao thì kín đáo
cũng vẫn hơn; rồi khi về đến Kontum, phi cơ đáp ngay trong trại
thì còn an toàn nào hơn. Vào đầu mùa mưa, nai thường mọc nhung
non hoặc có “hà nàm” nên những món này rất có giá trị. Nhung nai
được biếu làm quà cho CHT, còn “hà nàm” thì nấu cháo cho anh em,
thịt xẻ ra thì chia nhau cho quân nhân đơn vị và gia đình để
nhậu. Trong các canh xập xám, đôi khi các chàng pilot hứng chí
nghêu ngao khi bài mình lớn hơn bạn bè: “Ngồi trên trực thăng
nhìn nai chạy trốn, nhớ nhung nai nhớ cả hà nàm”, một đoạn của
bản nhạc “Bông cỏ may”.
Phần sinh hoạt của CCXP trên được kể
lại với tình trạng toán vô sự. Còn khi toán báo cáo bị chạm địch
thì sinh hoạt náo nhiệt hơn. Trước hết mọi người đều hay tin này
nên tất cả chăm chú theo dõi liên lạc giữa phi cơ U–17 đang trên
vùng giữ nhiệm vụ trung gian liên lạc giữa toán và BCH để biết
tình trạng hiện tại của toán. Nếu Toán bị chạm địch và có thiệt
hại như có người bị thương hay thất lạc thì tất cả đều chuẩn bị
cất cánh để triệt xuất toán ngay. Nói là chuẩn bị nhưng cũng phải
chờ phi cơ O–2 của TKS lên vùng mục tiêu để nắm vững tình hình
rồi mới ra lệnh cất cánh.
Ngay khi nhận được báo cáo Toán bị
đụng, TKS yêu cầu phi cơ O–2 cất cánh khẩn cấp. Sau 30 phút là
TKS được bốc tại Kontum để bay lên vùng Toán đang hành quân. Trên
đường đi, O–2 liên lạc trực tiếp với U–17 để biết rõ tình hình
hiện tại của toán, tình hình địch chung quanh Toán... để kip
request khu trục yểm trợ cho Toán nếu cần và điều động trực thăng
Cobra lên vùng để vùa yểm trợ tiếp cận cấp thời cho Toán đồng
thời cover cho trực thăng H–34 xuống bốc toán. Do đó khi phi cơ
O–2 đến trên mục tiêu thì mọi phương tiện yểm trợ đã được chuẩn
bị sẵn sàng, cũng có thể là đang trên đường đến “Rendez–vous
point”. Gần đến mục tiêu, máy truyền tin của O–2 có thể nghe được
Toán nên liên lạc trực tiếp với toán để nắm tình hình cụ thể và
chi tiết: chạm địch như thế nào, bị thương hay thất lạc ra sao,
tình trạng địch xung quanh, v.v. Do đó khi đến trên mục tiêu, TKS
đã nắm đủ các yếu tố để quyết định phương cách yểm trơ. Tuy đến
trên mục tiêu nhưng đâu biết vị trí hiện tại của Toán ở đâu nên
ngay khi Toán nghe được tiếng động cơ của O–2, Toán sẽ biết được
phi cơ đến từ hướng nào của Toán và hướng dẫn phi cơ hướng mũi về
đúng vị trí của Toán bằng phương thức giờ của đồng hồ: Thí dụ:
Tôi đang ở hướng 2 giờ của anh, thế là phi cơ đổi theo hướng 2
giờ của mình để hướng về Toán và cứ thế cho đến khi phi cơ bay
ngang đầu của Toán thì Toán báo cho biết là “Bingo, bingo”. TKS
đã biết vị trí tương đối của Toán nhưng để yểm trợ, TKS bắt buộc
phải thấy rõ điểm đứng của Toán nên bảo Toán “đốt đèn” hay “soi
gương”. Khi nghe lệnh này, Toán trưởng sẽ lấy kiếng ra hướng về
phi cơ lắc lắc. Từ trên phi cơ, với ánh sáng phản chiếu từ chiếc
gương to như chiếc nia, TKS biết rõ vị trí hiện tại của Toán và
chấm tọa độ để báo về BCH, đồng thời bảo Toán “trải chiếu” rA để
đánh dấu cho Cobra thấy được từng người đang quây quần xung quanh
để đừng tác xạ nhầm vào quân bạn khi phải yểm trơ quá gần.
Mỗi thành viên trong Toán Lôi Hổ được
trang bị ngoài vũ khí còn có các đồ dùng để mưu sinh, cấp cứu khi
bị thất lạc như: Pa–nô hai mặt vàng và màu đỏ cam, kiếng chiếu,
súng pen flare, địa bàn cá nhân. Toán trưởng và Toán phó được
trang bị thêm máy PRC–9 cấp cứu. Máy này được sử dụng khi hữu sự
như toán thất lạc, máy truyền tin PRC–25 bị mất hay hư hỏng. Máy
cấp cứu này có khả năng liên lạc trên băng tần VHF và trên tần số
S.O.S quốc tế với tất cả phi cơ nào bay ngang vùng dù phi cơ quân
hay dân sự. Phi cơ nhận được tín hiệu SOS sẽ nhận báo cáo của
người lâm nạn và báo về hệ thống của mình để tùy nghi. Các bạn sẽ
hỏi rằng làm sao để biết được người lâm nạn là ai để mà tiếp cứu?
Tôi không rõ về phía dân sự thì làm việc như thế nào, chứ mỗi mục
tiêu mà Toán chúng tôi hành quân đều có một tên gọi, được gọi là
Target Code. Chỉ cần nói Code này và người nhận chuyển về là BCH
biết ngay. Trong thủ tục request phi cơ khu trục cũng có mục báo
tên mục tiêu để yểm trợ bằng code này.
Riêng về kiếng “chiếu yêu”, nó chì là
mảnh gương thủy tinh chữ nhật khoảng 12cm x 10cm x 3/4cm, được
chế tạo sao cho khó vỡ khi có va chạm mạnh. Gương này thường được
trang bị cho tụi tôi và nhân viên phi hành của Không Quân. Từ
dưới đất, hướng về phía phi cơ đang bay trên trời, hơi ngược
chiều ánh mặt trời, bạn lắc lắc chiếc gương; từ trên phi cơ sẽ
thấy một vùng ánh sáng phản chiếu khá to giữa rừng cây xanh rậm
để biết vị trí bạn đang ở đâu một cách dễ dàng. Còn pa–nô, được
gọi là “chiếu”, là mảnh vải nhựa plastic dày, kích thước quãng 8
tấc x 5 tấc; một mặt màu vàng, mặt kia màu đỏ cam. Màu này nổi
bật chói chang giữa rừng cây nên dễ nhận biết. Tụi tôi thường may
lót mặt trong của mũ đi rừng, khi cần dùng đến là lộn ngược ra
đội lên và ngồi quây quần tạo thành một vòng tròn cho phi cơ
Cobra dễ phân biệt “phe ta” và “phe địch” khi yểm trợ tiếp cận.
Trong trường hợp Toán bị thất lạc, khi
tôi lên vùng thì chỉ liên lạc được với nhóm có máy để nghe báo
cáo tình trạng toán, còn người thất lạc thì đâu có gì đễ liên lạc
nên tôi chỉ thấy ánh kiếng chiếu lên để báo cho phi cơ biết vị
trí hiện tại. Trong trường họp này tôi làm việc với nhóm có máy
để lo bốc nhóm này ra trước rồi sau đó mới điều động phi cơ đến
bốc người bị thất lạc. Vì không có máy để liên lạc với nhau nên
tôi không thể nào phân biệt được là có bị địch uy hiếp hay không,
do đó tôi cho Cobra bay thấp và quan sát ghi nhận dấu hiệu địch,
sau đó báo cho chiếc H–34 vừa bốc toán lên đáp xuống lần nữa với
sự yểm trợ chặt chẽ của Cobra để Toán trưởng nhận diện người bị
thất lạc hoặc nếu có bị uy hiếp ép buộc gọi phi cơ thì sẽ kịp
thời phản ứng ngay.
Một lúc sau, đúng giờ hẹn ở
“Rendez–vous point”, phi cơ khu trục sẽ liên lạc với FAC để hai
bên thấy rõ nhau và bắt đầu công tác yểm trợ, tùy theo tình hình
hiện tại của toán để yểm trợ khi toán yêu cầu. Phi công O–2 hướng
dẫn điều chỉnh oanh kích với khu trục qua trung gian của TKS theo
yêu cầu của Toán và cũng tùy tình trạng mục tiêu để sử dụng loại
bom thích hợp. Thường thường Khu trục A1–E trang bị bom 250
pounds và Napalm cùng đại liên 20ly. Nếu chúng tôi thấy nhu cầu
yểm trợ cần trang bị loại nào khác thì yêu cầu ngay khi gởi order
cho Trung Tâm Không Trợ 2 (Peacock).
Loại phi cơ Skyraider A1–E rất thích
hợp với công tác của tụi tôi vì thời gian ở trên vùng lâu và
trang bị dồi dào hơn phản lưc cơ A–37. Phi đoàn khu trục thường
xuyên làm việc với chúng tôi trên địa bàn này là Phi Đoàn 530
thuộc SĐ6KQ, danh hiệu là Jupiter hay Thái Dương. Những pilot Phi
đoàn này như: Đại úy Hà, Đại úy Thặng, Chỉnh, Độ... là những
giọng nói quen thuộc trên vô tuyến khi làm việc với nhau và cũng
chỉ quen nhau qua giọng nói mà thôi. Riêng Đại úy Hà thì ngày tôi
còn đi Toán, trong một phi vụ yểm trợ cho Toán ở vùng Tam Biên,
Phi cơ Đại úy Hà bị bắn nên phải nhảy dù, Toán chúng tôi đã nhảy
xuống để rescue gần trại Ben Het.
Trong Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, trong một phi
vụ yểm trợ thành phố Kontum, Phi cơ Đại úy Thặng bị bắn phải đáp
khẩn cấp ở trên cồn cát sông Dakbla và bị cháy, mang đi vĩnh viễn
người hùng của PĐ–530. Lúc đó hình như tôi đang bay trên L–19
trong một công tác khác, hay tin này trên vô tuyến nên tôi bay
ngang chỗ crash, lắc cánh chào tiễn biệt.
Phải công nhận là A1–E đánh rất đẹp và
chính xác. Cứ cho đánh single để thấy hai chiếc luân phiên nhào
lộn lao vào đánh. Nghe hai chiếc trao đổi vô tuyến với nhau:
“Number 1 rolling! Number 2 rolling!” hoặc “Số 2 đánh dài hơn 50
mét! OK! Number 2 rolling!” rồi nhào xuống; ngồi trên O–2 nhìn
thật là đã mắt. Có những khi Toán không cần yểm trợ của khu trục,
tôi cho khu trục làm orbit đợi cho đến khi bốc Toán ra xong xuôi,
phi cơ O–2 dẫn đến một điểm ghi nhận là kho tàng nào đó của CS để
đánh cho hết bom hoặc đến free zone để làm B–52 thả ào một phát
cho xong. Trên đường về, FAC Mỹ bay formation với 2 chiếc Khu
trục để quay phim. Thật là đẹp! Sau A1–E là loại F4 Phantom của
một phi Đoàn Mỹ nào đó mà tôi không nhớ danh hiệu, pilot Phi Đoàn
này đánh cũng rất đẹp. Nhìn khu trục phản lực nhào lộn thiệt là
khoái con mắt.
Sau phi tuần khu trục, các phương tiện
đã tụ tập đông đủ, tôi báo cho Toán chuẩn bị an ninh bãi đáp để
cho H–34 xuống triệt xuất, hai Cobra nãy giờ ở trên cao chờ đợi,
bây giờ được lệnh xuống clear bãi. Chiếc sau theo chiếc trước bay
vòng vòng quanh bãi để quan sát và sẵn sàng yểm trợ theo yêu cầu
trực tiếp của Toán trưởng qua tần số PRC–25 của toán. Khi thấy
bãi đáp an toàn, họ báo cho H–34 xuống bốc Toán ra. Ngồi trên O–2
theo dõi diễn tiến và monitor qua các hệ thống truyền tin UHF,
giữa các phi cơ với nhau, FM giữa Toán và Cobra; tôi yên lặng để
quan sát các phương tịện phối hợp nhau một cách nhịp nhàng trong
công việc triệt xuất. Nhịp nhàng là vì chúng tôi đã làm việc với
nhau thường xuyên nên hiểu rõ những gì cần làm trong những công
tác này. Trường hợp LZ tốt, trực thăng đáp ngon lành thì Toán leo
lên phi cơ cũng ngon lành, đàng hoàng ngồi trên sàn phi cơ. Còn
trường hợp bãi đáp xấu như: hẹp, có cây cao xung quanh nên trực
thăng không thể chạm đất được. Trong trường hợp này Toán phải leo
thang được thả xuống từ phi cơ trực thăng hay phải câu về.
Chuyến nhảy đầu tiên “thử gió” của tôi
khi mới về đơn vị là tại vùng Hạ Lào. Vùng này nhiều núi nên kiếm
bãi đáp rất khó. Sau 7 ngày hành quân an lành, tôi đi tìm bãi
triệt xuất. Vì là chuyến đầu tiên nên chưa có kinh nghiệm. Khi
tìm ra được một chỗ trống, tôi hỏi các toán viên, đứa nào cũng
nói tốt rồi ông thầy, yên chí đi. Đến khi triệt xuất, phi cơ H–34
len lỏi hoài cũng không đáp được nên phải thả thang dây xuống.
Theo nguyên tắc, khi triệt xuất Toán trưởng là người mang máy
PRC–25 để trực tiếp liên lạc với phi cơ và là người lên sau cùng.
Tôi cố bám từng nấc thang để leo lên, nhưng máy truyền tin ghì
tôi ra phía sau nên tôi không thể nào leo lên thêm được. Tôi bèn
móc khoen sắt chữ D vào thanh thang bằng nhôm để giữ người tôi
lại, hai tay móc vào thanh thang và ghì lấy ót, cứ thế mà đong
đưa cho đến khi về đến trại Ben Het mới đáp xuống để tôi leo lên
phi cơ với toán; các toán viên xúm lại bóp tay chân tôi vì bị tê
sau gần nửa tiếng đồng hồ ngồi trong tư thế đó.
Còn trường hơp câu thì tôi chưa được
nếm mùi trong hành quân nhưng qua huấn luyện thì tôi đã được thực
hành như sau: Trên mỗi dây ba chạc mang băng đạn và bi đông nước
có hai cái khoen chữ D móc trên vai; trực thăng thả xuống một sợi
dây dù có khoen sắt ở đầu dây được cột thêm bao cát cho nặng,
toán viên chỉ cần móc khoen của mình vào khoen của sợi dây. Khi
tất cả đã móc xong thì ra hiệu cho phi cơ bốc lên, thế là tòn
teng câu về. Lối câu này có phần nguy hiểm vì trực thăng phải chú
ý bốc cao khỏi ngọn cây rồi mới bay tới, nếu không người được câu
sẽ va vào thân cây. Khi lên trên không, các người được câu phải
ôm lấy nhau để đề phòng trường hợp dây bị xoắn vì gió.
Những chuyến nhảy sau đó là vùng cực
Bắc Cam Bốt, phần lớn là đồng bằng nên tìm bãi đáp dễ và tốt hơn
nhiều. Khi ngồi được trên sàn phi cơ, tôi cảm thấy lòng nhẹ nhõm
vì cả Toán đã chấm dứt nhiệm vụ sau 7 ngày hành quân, chấm dứt
những ngày lặn lội trong rừng già Trường Sơn, những đêm chui rúc
giữa lùm bụi để tìm chỗ ngủ. Xin giã từ núi rừng Trường Sơn! Chắc
chắn chẳng bao giờ chúng tôi trở lại chốn này và chắc cũng chẳng
bao giờ có ai khác đặt chân đến đây! Trả lại sự yên lặng âm u của
núi rừng cho ngàn đời sau.
*****
Trường hợp trên là Toán bị chạm địch
chỉ thất lạc nhưng không có ai bị thương. Nếu có người bị thương
với vết thương nặng thì có thể coi như bỏ xác trong rừng là
chuyện thường. Các bạn thử tưởng tượng một Toán di chuyển trong
vùng rừng núi chập chùng với quân số 4 hay 6 người, mà một người
bị thương thì tình trạng di chuyển sẽ tệ hại như thế nào? Rồi nếu
bị địch theo dõi nữa thì sẽ ra sao? Thật là thiên nan vạn nan...
Trong cuộc dòi nhảy toán tôi gặp hai trường hợp nguy khốn sau:
Vừa nhảy xuỐng qua được một đêm, ngày
hôm sau di chuyển đến mục tiêu vẫn chưa ghi nhận được gì; đến
chiều chúng tôi dừng quân chuẩn bị chỗ ngủ. Trong lúc chờ trời
tối để ngủ, tôi đang ngồi ngắm cảnh rừng núi âm u trong buổi
hoàng hôn mà nhớ nhung lung tung: nhớ phố phường, nhớ các cô em
gái hậu phương, ngồi tính nhẩm xem còn bao nhiêu ngày nữa thì
được triệt xuất, v.v. Người biệt kích quân dẫn đầu ném cục đất về
phía tôi và chỉ chỉ ngón tay về hướng nghi ngờ có địch; tôi mang
lại dây đạn và cầm súng lên hướng về phía đó; tôi chưa nhìn được
bóng dáng chú VC nào thì nghe có tiếng súng nổ ở phía người đi
đầu. Tất cả Toán cùng vùng dậy nổ súng đồng loạt hướng về phía đó
rồi dàn hàng ngang tiến về phía đỉnh, cách chỗ dừng quân khoảng
50 thước. Trời lúc này đã nhá nhem tối, đang cố bước lên dốc về
phía đỉnh núi thì nghe một loạt súng nổ và nghe tiếng la của một
toán viên: “Chết toi rồi ông ơi!”. Tôi cũng vừa chạy tới thì thấy
người toán viên đang nằm lăn lộn; tôi bèn luồn tay vô dưới áo coi
người này bị thương như thế nào thì ngón tay tôi lọt vô một lỗ
sâu hoắm ở bên cạnh sườn ngang ngực, tôi biết ngay là vết thương
rất nặng nên không thể nào mang theo được. Tôi không kịp lột một
món gì đó để mang về làm bằng chứng và chạy tiếp theo anh em
trong toán. Đêm đó chúng tôi di chuyển suốt đêm, hết trèo dốc lại
tuột dốc để di chuyển ra xa khu vực chạm súng. Trời tối thăm
thẳm, chúng tôi lần dò từng bước theo nhau, người sau theo người
trước; lúc nào mệt thì ngồi dạng hai chân bám vào một thân cây để
nghỉ và gục đầu vào thân cây để ngủ. Ngồi trên sườn núi, tôi nghe
tiếng lội bì bõm của VC đang đi tìm dọc theo suối, chúng vừa đi
vừa nói chuyện nhưng nghe không rõ.
Nguyên ngày hôm sau di chuyển tương đối
yên tĩnh, có lẽ đã ra khỏi “ổ kiến lửa”. Chúng tôi coi như mất
điểm đứng vì di chuyển suốt đêm qua đâu có theo phương giác nào
đâu; cứ chạy mệt thì ngồi nghỉ, rồi lại di chuyển tiếp tục, cứ
thế mà chạy trong đêm đen, đâu có ước lượng gì được khoảng cách.
Khoảng gần trưa thì báo cáo được tình trạng hiện tại của toán và
xin phi cơ chấm điểm đứng cho Toán. Trong lúc đang liên lạc
truyền tin thì nghe có tiếng động, chúng tôi vội bố trí hướng về
phía đó. Tôi nằm quay đầu ngược hướng với người toán trưởng, là
Chuẩn úy Minh tục gọi là Minh Lai; tôi quay đầu ra sau để nhìn
xem tình hình như thế nào thì thấy Minh Lai ngồi bật dậy và nổ
súng về hướng trước mặt hắn rồi quay người phóng vọt qua người
tôi và chạy về hướng tay phải. Tôi cũng bật dậy và chạy về hướng
trước mặt, Chuẩn úy Tiếng và vài toán viên nữa chạy theo tôi,
trong đó có người Hiệu thính viên. Chạy được khoảng 10 thước tất
cả chúng tôi dừng lại; tôi thì thào hỏi Chuẩn úy Tiếng: “Mày tính
sao?”, “Mày là toán phó thì tùy mày quyết định” Tiếng trả lời.
Tôi cầm máy cấp cứu PRC–9, lúc đó đang hoạt dộng, gọi cho Minh
Lai nhưng không thấy trả lòi, thế là tôi quyết định cho tất cả
những người còn lại tiếp tục di chuyển.
Tôi xin mở ngoặc để giải thích tại sao
tôi là Toán Phó cho Chuẩn úy Minh:
Ngày tôi là Toán Trưởng Toán Sơn Lôi,
trong chuyến hành quân đầu tiên, toán tôi được thả xuống mục tiêu
quãng 5 giờ chiều. Người HSQ toán phó góp ý: “Ông báo cáo là mình
xuống bãi bị đụng để được bốc về ngay đi. Xâm nhập trễ như vầy
rất là nguy hiểm”. Thế là tôi làm theo. Sau đó Toán được yểm trợ
để được triệt xuất.
Theo kinh nghiệm của những người đi
nhảy toán lâu năm, thì xâm nhập vào giờ trễ như thế rất nguy hiểm
cho Toán vì trời sắp tối. Trong thời gian đầu vừa nhảy xuống,
chúng tôi chưa nắm được tình hình khu vực như thế nào, nếu trong
lúc di chuyển mà bị địch theo dõi hoặc chạm địch thì khó có được
sứ yểm trợ tiếp cận và các phương tiện KQ không thể triệt xuất
cấp tốc. Thông thường nếu vì bất cứ lý do gì mà cuộc đổ quân thực
hiện ở thời điểm muộn như thế thì cuộc xâm nhập được hoãn qua
ngày hôm sau. Hôm đó không hiểu sao nguyên tắc này không được tôn
trọng trong khi tôi là lính mới nên không biết điều này. Sau vụ
này, Thiếu tá CHT cho là tôi bị thuộc cấp mener nên đưa tôi qua
làm Toán Phó cho Minh Lai và nhảy chuyến đầu tiên là bị như trên.
Riêng Chuẩn úy Tiếng thì là sĩ quan mới được thuyên chuyển về
Kontum từ CĐ3XK ở Ban Mê Thuột, lý do là “chống Mỹ cứu nước” sao
đó ở đơn vị cũ và cũng sẵn chuyến hành quân này nên CHT cho đi
theo với tính cách Quan Sát viên, do đó lần hành quân này, Toán
có tới 3 sĩ quan.
Trong lúc di chuyển, tôi báo cáo được
tình trạng hiện tại của Toán: một Toán viên được ghi nhận là chết
và Toán Trưởng mất tích và xin triệt xuất khẩn cấp. Toán được bốc
về trong ngày. Khi tái thuyết trình về chuyến hành quân vừa qua,
tôi và Tiếng tường thuật các chi tiết diễn tiến; đơn vị cho phi
cơ bay lên vùng để tìm kiếm xem có dấu vết gì của người bị mất
tích không vì cũng có thể phải lẩn trốn đâu đó nên chưa có dịp ra
liên lạc với phi cơ đang bay tìm. Nhưng sau ba ngày, tôi và Tiếng
dẫn một toán khác nhảy trở lại mục tiêu cũ để tìm kiếm và lấy xác
nếu có thể. Nhưng sau một ngày lặn lội, chứng tôi không thấy gì
cả, chỉ thấy những dấu vết trên thân cây bị đạn do cuộc giao
tranh vừa rồi mà thôi. Trong lúc Toán nằm tại bãi đáp để chờ trực
thăng đến triệt xuất, Tôi lại bị theo dõi và chạm súng; nhưng nhờ
các phương tiện đều đang chuẩn bị nên khu trục có thể yểm trơ
ngay và lần này Toán Trưởng của Toán chúng tôi đi cùng bị một
mảnh bom chém ngay bắp vế. Kết quả cuối cùng là một chết mà không
mang xác về được và một sĩ quan Toán Trưởng mất tích.
Lôi Hổ chết không người xây mộ,
Lá vàng rơi phủ lấy xác thân.
Hai câu thơ trên đã nói lên trọn vẹn
thân phận của người lính Biệt Kích khi tử trận. Đó là điều không
thể tránh được vì với công tác của chúng tôi, thân ai nấy lo có
nghĩa là tự mình phải mang tất cả những gì mình cần dùng khi đi
hành quân, đâu có ai mang hộ cho mình; do đó làm sao mà khiêng
thêm một người bị thương nặng đến độ không di chuyển được, nhất
là với địa thế núi rừng Trường Sơn và trong lòng căn cứ địch.
Chuyến hành quân thứ hai với quân số 6
người. Vào ngày thứ nhì, trong lúc đang dừng quân nghỉ mệt, người
Toán Phó báo cho tôi biết có địch theo dõi; tất cả trong tư thế
sẵn sàng. Bỗng một loạt súng nổ rền, tôi chồm lên nổ về phía nghi
ngờ, rồi dzọt. Người Trung sĩ Toán phó, tên là Bảo, báo tôi biết
là bị thương. Tôi quay lại coi thì thấy anh ta bị thương nơi
mông, tôi hỏi có chạy được không thì anh ta trả lời là được; thế
là chúng tôi rút lui. Khi gom góp Toán lại thì thấy một người
vắng mặt, coi như tổng kết là một bị thương, một mất tích. Chúng
tôi tiếp tục rút lui trong cơn mưa tầm tã. Mưa rừng Trường Sơn
dai dẳng, cứ rả rích mưa hoài, xung quanh được bao phủ một màn
sương trắng đục, không khí lạnh phủ kín thung lũng một màn tráng
xóa không còn nhìn thấy được gì cả. Chúng tôi cứ thế lần dò từng
bước trơn trợt xuống triền dốc, lá vàng rơi rụng đã từ bao nhiêu
đời phủ dày mặt dất. Bị bước chân trơn làm lộ từng mảng lớn. Tôi
bảo toán viên gài mìn M–14 dưới những mảng trơn trợt đó và tiếp
tục di chuyển. Trung sĩ Bảo cứ cà nhắc di chuyển theo Toán; phần
bị thương, phần ướt đẫm nước mưa nên trông cứ tái xám. Ở nhà đã
biết tình trạng chúng tôi nhưng vì thời tiết quá xấu, mây mù và
mưa, nên không thể đưa phương tiện vào triệt xuất chúng tôi được.
Đêm đến, tôi cuộn chung poncho với Trung sĩ Bảo ngõ hầu ấm áp
được cho cả hai phần nào; bao nhiêu thuốc trụ sinh mang theo tôi
đều xài cho Bảo. Nằm trên poncho mà cũng như không vì nước cứ lấp
xấp vì mặt đất đều bị sũng nước mưa. Tôi trùm lại để đốt điếu
thuốc hầu sưởi ấm cho Bảo phần nào.
Trọn sáng ngày hôm sau vẫn tiếp tục di
chuyển; trời tương đối sáng sủa nhưng vẫn chưa tìm được bãi đáp.
Chúng tôi hy vọng sẽ được triệt xuất trong ngày hôm nay vì thời
tiết có vẻ sáng sủa, trời quang mây tạnh. Đang ngồi nghỉ mệt ở
một triền núi, tôi bỗng nghe 2 tiếng nổ ầm vang giữa núi rừng,
cách nhau khoảng vài ba giây, sau đó là một loạt súng AK. Thoạt
đầu tôi nghĩ là địch pháo kích, nhưng người toán viên nói “Mìn
Chuẩn úy, mìn Chuẩn úy”, tôi mới nhớ ra là mìn M–14 mình cho chôn
hôm qua... Thế là cả toán chạy tiếp vì biết là địch đang theo dấu
vết của chúng tôi. Chắc là có vài tên VC đang mò mẫm theo dấu vết
do chúng tôi để lại rồi đạp phải trái mìn chống người M–14, kế đó
ngã đè lên trái thứ hai nổ tiếp, rồi mấy tên đi cùng hốt hoảng nổ
súng.
Mãi đến
chiều hôm đó phương tiện mới vào bốc chúng tôi ra, trong lúc đang
làm việc với chúng tôi, phi cơ O–2 cũng thấy kiếng chiếu lên của
người đang bị thất lạc và sau đó bốc luôn. Trung sĩ Bảo được chữa
trị và sau đó chân đi hơi khập khiễng vì vết thương ở mông. Tôi
hỏi người toán viên bị thất lạc về những gì đã xảy ra thì anh ta
kể: “Sau khi nghe nổ súng thì anh ta dzọt thẳng, sau đó nhìn lại
thì không thấy ai chạy theo nên anh ta kiếm chỗ trốn, chờ máy bay
lên thì ra chiếu kiếng.”
Trong hoạt động cấp Toán của chúng tôi,
đi hành quân càng ít người càng nhiều thuận lợi: trực thăng chỉ
đáp xuống LZ một lần và vì chở nhẹ nên đáp nhanh và dễ, Toán di
chuyển ít gây tiếng động, tập trung gọn gàng, chui rúc dễ dàng và
cùng nhau chạy cũng gọn; buổi tối kiếm chỗ ngủ cũng dễ vì có ít
người nên lùm bụi nhỏ nào cũng chui vào được cả... Cũng vì ít
người, từ 4 đến 6 người, nên nếu chẳng may có người bị thương
nặng là coi như gởi xác lại trong rừng. Tính theo tỉ lệ thì binh
chủng chúng tôi có tỉ lệ tử trận thấp nhất vì nhiệm vụ của chúng
tôi là thám sát, theo dõi chứ đâu phải là nghênh chiến; lúc nào
cũng chỉ lẩn tránh, rình mò... bất đắc dĩ mới tao ngộ chiến. Mà
khi tao ngộ, chúng tôi thường là người nổ súng trước rồi chạy vì
trong rừng rậm, dù cho địch theo dõi cũng chỉ lần theo dấu vết
hay theo hướng có tiếng động chứ khó mà trông thấy nhau. Trường
hợp chúng tôi dừng chân ngồi nghỉ, địch đang đi theo, lò dò dẫn
xác vào thì chỉ có ăn đạn thôi. Những chỗ địch thường đóng quân
là ở những nơi gần suối hay vùng đất phẳng, đồng bằng để tiện
sinh hoạt và trồng trọt, còn chúng tôi di chuyển thì thường là
trên triền núi nên có thể chỉ nghe tiếng động do sinh hoạt gây
nên chứ khó mà gặp mặt.
Thông thường là như thế, nhưng nếu Toán
được thả ngay “ổ kiến lửa” thì thôi, không còn gì để nói nữa vì
có còn sống đâu để mà nói.
*****
– Hello! Xin lỗi có phải anh Nguyễn Hữu
Thọ không ạ?
– Dạ vâng, tôi đây! Xin lỗi
tôi được tiếp chuyện với ai?
– À! Anh có
quen ai tên là Trương Thành Đạo không?
–
Dạ biết chứ! Trương Thành Đạo trước ở B–15 mà!
– Thưa đúng vậy! Tôi là vợ anh Đạo.
– Ồ!
Cô H. đó phải không?
Thật là bất ngờ ngoài cả dự định. Từ
năm 1982, sau khi tôi ra khỏi trại cải tạo đến nay tôi mới lại
liên lạc được với cô H. Hai mươi hai năm rồi chứ ít gì!
Tôi còn nhớ năm đó, khi vừa ra tù, tình
cờ tôi gặp một người bạn cùng đơn vị, đang chạy xe ba bánh. Nó
hỏi tôi còn nhớ cô H. vợ thằng Đạo không và cho tôi biết tin tức
và địa chỉ. Tôi liền đến thăm thì được cho biết tin là bạn tôi đã
chết trên đường vượt biên cùng với vợ con. Trên chuyến ghe chạy
ra cửa biển để lên tàu lớn, ghe bị du kích chận bắt và nổ súng.
Trên ghe không ai bị đạn, chỉ có thằng bạn tôi lãnh một viên và
chết tốt. Theo lời kể, nó cũng ra tù cùng một thời điểm với tôi,
nghĩa là cũng đã gỡ 6.1/2 cuốn lịch, nhưng ở khác trại. Vài tháng
sau có chuyến đi mà gia dình đã chuẩn bị từ trước nên đem nó
theo. Bẵng đi từ đó, tôi không còn biết tin tức gì nữa về cô H.
và hai cháu.
Trương Thành Đạo là một trong những sĩ quan về Sở Liên Lạc sau
khi ra trường Bộ Binh TĐ; nhưng nó thì về Ban Mê Thuột, còn tôi
thì về Kontum. Vài tháng sau nó cũng chuyển về Kontum chung đơn
vị với tôi là B–15.
Chiến Đoàn 2 Xung Kích lúc đó thành lập
10 Toán Việt Nam, tên các toán có chữ thứ hai là LÔI, chỉ khác
nhau chữ đầu: Phong Lôi, Hỏa Lôi, Kim Lôi... Toán của Đạo là
Thiên Lôi. Toán này có cái đặc biệt là sử dụng toán viên là cán
binh Việt Cộng chiêu hồi, được tuyển dụng từ Trung Tâm Chiêu Hồi
Thị Nghè. Theo tôi nhớ, toán này gồm 3, 4 cán binh MTGPMN và 1 Bộ
đội CSBV. Với những người miền Nam, họ nói chuyện cởi mở trong
khi chuyện trò, còn người Cán binh miền Bắc thì có vẻ ngổ ngáo
hơn. Thỉnh thoảng hắn nói to lên những lời thông báo trên loa báo
động cho dân chúng biết máy bay Mỹ đang đến oanh tạc. Lúc đó tôi
nghe những lời này và có cảm tưởng hơi quái đản vì không hề nghe
thấy bao giờ trước đó. Sau 4/75, chắc hẳn các bạn cũng đã nghe
trên loa phóng thanh những lời thông báo chua như dấm chứ gì!
Vì toàn là Chiêu hồi nên Đạo chỉ có
nhiệm vụ huấn luyện và tổ chức hành quân chứ không nhảy cùng với
Toán của mình như các Toán khác. Các toán viên của Toán Thiên Lôi
cũng sinh hoạt bình thường như chúng tôi trong doanh trại. Tuy
nhiên dưới mắt tôi lúc đó thì cũng hơi tò mò vì các thành phần
chiêu hồi này. Một vài lần nói chuyện với họ, tôi cũng hỏi thăm
về những sinh hoạt của họ trong đơn vị CS trước đây; ngoài ra tôi
cũng không chú ý đến công tác của Toán này. Tôi chỉ nhớ khi tôi
đi bay liên lạc hằng ngày, thì ngày hôm trước tôi thấy Toán ở một
vị trí, đến hôm sau thì họ đã ở cách chỗ ngày hôm qua hàng vài ba
cây số. Và mỗi lần báo cáo, họ báo cáo rất to chứ không thì thào
như chúng tôi. Thì ra với kinh nghiệm vượt Trường Sơn để xâm nhập
vô miền Nam, họ đã quá biết tình hình hoạt động trong rừng của
các đơn vị CS nên khi quan sát những dấu vết còn để lại, họ biết
là có hay không có người đang ở quanh đây nên họ không cần dè dặt
như chúng tôi. Hơn nữa với tình hình ghi nhận như thế, họ cứ phom
phom đi theo đường mòn trên đỉnh núi chứ đâu cần dò dẫm và băng
rừng vượt núi theo phương giác như chúng tôi. Thả họ vô rừng như
thả hổ về rừng, họ mặc sức tung hoành mà không cần huấn luyện kỹ
càng như chúng, tôi đã được huấn luyện trước đây. Và cũng chính
vì thế mà người Toán trưởng không thể đi hành quân chung với họ.
Tin thế nào được!!!
Thường thường, một mục tiêu có giới hạn
trên bản đồ là 6 ô vuông, tức là một khu vực 36 cây số vuông. Khi
nhận lệnh hành quân và nghiên cứu tình hình, nhiệm vụ, cũng chỉ
trong giới hạn đó mà thôi. Thiết kế lộ trình di chuyển trong thời
gian hành quân 7 ngày, chúng tôi di chuyển quanh quẩn khoảng vài
cây số từ bãi đáp nhảy xuống cho đến bãi đáp triệt xuất. Bao
nhiêu đó cũng đã quá mệt cho chúng tôi vì phải di chuyển vượt từ
sườn núi này qua sườn núi khác, rồi băng rừng vượt suối. Có những
khu vực rừng già thì di chuyển tương đối dễ, chỉ bị trơn trợt vào
mùa mưa vì lá rụng dày đặc, chồng chất có lẽ từ thuở khai thiên
lập địa cho đến ngày chúng tôi đặt chân đến. Còn gặp phải rừng
tre thì chỉ có nước khóc ròng vì tre giăng chằng chịt, rồi gai
góc, muỗi, vắt; dây leo, chúng tôi phải lần dò từng bước... làm
sao mà di chuyển cho nhanh được! Có những loại gai rất là quái
ác: nhìn nó to, cong như sừng trâu, mũi rất nhọn, quái ác là nó
mọc ngược nên luôn luôn chực móc vào mọi vật khi tiến tới. Bị nó
móc là phải dừng lại ngay vì nó giữ chặt không sao bước tới được,
rồi mới từ từ gỡ ra đi tiếp; nếu lỡ trớn bước tới là áo quần bị
rách ngay. Với các Toán thì mục tiêu giới hạn là như thế; nhưng
với Toán Thiên Lôi thì không giới hạn vì như đã trình bày ở trên,
giới hạn thế nào được khi thả họ xuống một nơi mà không có người
đang sinh hoạt do đó họ đâu cần lần dò từng bước như chúng tôi.
Quân phục và vũ khí của họ cũng được trang bị như của cán binh
xâm nhập nên họ không ngại ngần khi tao ngộ chiến. Chắc hẳn cũng
sẽ hỏi thăm nhau: “đồng chí thế này, thế kia...” rồi đường ai nấy
đi chứ không cần nổ ngay như trường hợp chúng tôi gặp tao ngộ
chiến. Đó cũng là một lợi thế trong loại công tác của chúng tôi
mà không phải dễ dàng gì được huấn luyện hoặc giả dạng được vì
còn tùy thuộc vào giọng nói, vóc dáng, những am tường về tình
hình hoạt động của CS trong đường dây xâm nhập, v.v. Mặt mũi như
tôi, đen đủi, để bộ râu mép rậm rạp và không có nét “răng hô mã
tấu” thì làm sao mà tin được tôi là cán bộ CS đang trên đường xâm
nhập!
Về sau
này, tôi cũng không còn nhớ vì lý do gì và kể từ lúc nào Toán
Thiên Lôi không còn hoạt động nữa và Trương Thành Đạo đã đảm
trách một công việc khác của đơn vị, hình như là về Không Ảnh.
Cô H. đã nói với tôi là tình cờ đọc
được bài viết trên báo Lý Tưởng viết về B–15 với tên ký là Lôi Hổ
Nguyễn Hữu Thọ thì không còn nghi ngờ gì nữa nên đã gọi phone cho
tôi theo như số phone tôi ghi trong bài. Và cũng từ đó tôi bắt
liên lạc được với một người quen đã bặt tin từ 22 năm nay. Sau
chuyến vượt biên thất bại, hậu quả là góa bụa, vài tháng sau có
chuyến đi nữa, cô H. và hai con đi tiếp và thoát đến bến bờ tự
do. Tự do mà cô đã phải trả bằng một giá quá đắt.
Cũng qua bài viết “Xá gì SA–7!” đăng
trên Lý Tưởng số phát hành tháng 3/04, tôi cũng liên lạc được với
BS Bùi Trọng Căn, Trưởng Ty Y Tế Pleiku qua sự giới thiệu của BS
Nguyễn Gia Tiến, Bác sĩ Không Quân, hiện đang ở Thụy Sĩ Rồi từ
Bác sĩ Căn, tôi liên lạc được với những người bạn bặt tin từ 40
năm nay. Và vui nhất là cũng nhờ BS Căn, tôi liên lạc được với
Trung úy Lê Nghĩa Dũng, Quân Vận Khu Pleiku là em của Bác sĩ Lê
Thiện Ý LLĐB/QK2, hiện đang ở Canada. Ngoài ra còn có anh Bun,
PĐ–229 cũng gọi phone cho tôi để chuyện trò về những lần thả toán
trước đây.
Năm
1999, trong lần về Cali để thăm Thủ Đô Tị nạn, tôi được dịp gặp
gỡ những bạn bè cùng Binh chủng hoặc cùng đơn vị xưa kia. Ngoài
hàn huyên và nhắc lại chuyện xưa tích cũ, có một chị vợ người bạn
là dân Kontum, cho biết là vừa về VN và lên Kontum thăm gia đình,
theo lời chị ấy thì doanh trại của B–15 trước đây, giờ không còn
một dấu tích gì. Và cũng theo lời cô H. thì trong một chuyến về
VN, theo ông anh lên Pleiku công tác, có ghé lên Kontum, cô không
còn tìm được một dấu vết gì ngày trước. Mọi hình ảnh của B–15 và
phố phường của Kontum không còn lưu lại một tí dấu tích gì của
gần 30 năm về trước. Tất cả đã đổi thay! Nếu có hỏi lớp người ở
lứa tuổi 30, 35 hiện tại về B–15, ai cũng lắc đầu không biết nó
là cái quái gì.
Tất cả giờ đây chỉ còn là ký ức và rồi
cũng sẽ phôi pha cùng thời gian. Lớp lính tráng Lôi Hổ năm xưa,
đã một thời ngang dọc, tung hoành trong núi rừng Trường Sơn, đã
một thời quậy phá thị xã Kontum cũng dần dần già nua tàn lụi theo
năm tháng. Người ra đi mang kiếp lưu vong, không quê hương, kẻ ở
lại ngậm đắng nuốt cay trong muôn vàn khổ cưc; vất vưởng trong xã
hội mà kẻ thắng trận đang tàn phá đất nước và rồi sẽ xuôi tay
nhắm mắt, ôm theo nỗi tiếc nuối của một thời dọc ngang.
Tháng 4 Đen, 2004
Lôi Hổ Nguyễn Hữu Thọ
CĐ2XK/SLL/NKT/TTM
B–15 – Kontum
Nguồn:
http://nhakythuatvnch.blogspot.com
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by BKT sưu tầm
Đăng ngày Thứ Ba, September 27, 2022
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang