Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Truyện ngắn
Chủ đề: Kỷ niệm
Tác Giả: BS Vĩnh Chánh
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Cổng trường Lycée Blaise Pascal
Vào năm Terminale
tôi chuyển trường từ Providence ở Huế vào Lycée Blaise Pascal
tại Đà Nẵng, và tạm trú trong biệt thự của người chị con bác
ruột tại đường Nguyễn Thị Giang trong suốt niên học. Gia đình
anh chị Châu có 4 đứa con, gồm 3 trai và một gái út đang ở lứa
tuổi từ tiểu học đến trung học đệ nhất cấp. Gia đình rất mộ đạo,
tối nào cũng đọc kinh chung với nhau trước bàn thờ. Tôi cũng
tham gia khi không quá bận với các bài học.
Thỉnh thoảng, vào cuối mỗi hai tuần,
thân phụ của anh Châu đến thăm, mang những sản phẩm trong vườn
nhà tại Hòa Vang, như các loại rau, ớt, su le, mướp, khoai lang,
chuối, ổi, nhãn, mận, mít, bòn bon, chanh, xoài, cà na... cùng
với gà vịt tươi. Ngoài ra ông còn mang theo 2 chị em, là cháu
ngoại của ông, kêu anh Châu bằng cậu, từ trong nội trú của dòng
nữ tu Sacré Coeur tại Đà Nẵng, về ở chơi suốt ngày thứ Bảy rồi
đem trả về lại nhà dòng sau lễ sáng Chủ Nhật. Người chị lớn tên
Thanh, còn được mấy đứa nhỏ trong nhà kêu chị Agnès, thuở tôi
khoảng ba hay bốn tuổi. Mỗi khi đến chơi, Thanh luôn mặc đồng
phục màu xanh da trời, nhìn vào biết ngay đang là đệ tử thanh
tuyển.
Ngoài
chuyện thỉnh thoảng tôi chỉ dạy cho các cháu nhỏ chút bài vở,
nhất là các bài tập về toán vào cuối tuần theo sự yêu cầu của
cha mẹ, cả đám xúm xít ngồi nghe tôi kể chuyện, thường là vào
tối Thứ Bảy, bao gồm bốn đứa con của anh chị chủ nhà, hai chị em
Thanh, và một đứa cháu trai khác là con của em gái chị chủ nhà.
Tất cả đám, từ Thanh lớn nhất cho đến đứa nhỏ nhất, đều kêu tôi
bằng cậu. Từ chuyện tôi vui chơi lang thang một mình khi còn nhỏ
trong vườn rộng lớn đầy đủ loại cây ăn trái của OB Nội tôi, như
trèo cây hái trái, bắt ve sầu bằng mủ mít, bắt châu chấu cho
chim con, bắt dế cho đá nhau, lấy tre làm gươm... trong thời
gian gia đình tôi còn ở Phủ Cam, cho đến các chuyện ma kinh dị,
các truyện đường rừng mà tôi nghe được từ các bà chị ông anh của
tôi, rồi chuyện vui buồn 7 năm học của tôi tại trường Providence
với các Cha người Pháp thuộc Dòng Thừa Sai Mission Étrangère de
Paris. Tôi cũng kể những đoạn hay trong các truyện tàu như Nhạc
Phi Chung Vô Diệm, Tề Thiên Đại Thánh và Đường Tam Tạng, Tôn Tẩn
Bàng Quyên, Việt Vương Câu Tiễn nàng Tây Thi và Ngô Phù Sa, Trận
Xích Bích, Luu Bị Tào Tháo Khổng Minh, Triệu Tử Long cứu ấu
chúa... Rồi lần lượt kể luôn những tác phẩm văn chương Pháp tôi
còn nhớ, đã học hay đọc qua, của Lamartine, Victor Hugo,
Molière, Corneille, Romeo et Juliette, Les Miserables, Quasimodo
của Nhà Thờ Đức Bà, Les Trois Mousquetaires, Vingt Ans Après, Le
Comte de Monte Cristo, Les Grands Coeurs, cùng một số tác phẩm
của các văn hào người Nga và một loạt truyện của AJ Cronin như
La Citadelle, Les Vertes Années, Les Clés du Royaume, Trois
Amours, là những truyện có lẽ phần nào ảnh hưởng đến tôi về sau
khi tôi chọn theo học Y Khoa.
Những
tối cùng ngồi trên sân thượng, nhất là vào những đêm có nhiều
sao, tôi cũng giải thích chút xíu về thiên văn, giải ngân hà,
các chùm sao Petite Ourse, Grande Ourse, Étoile Polaire kèm theo
câu chuyện thần thoại Hy Lạp... Cách tôi kể chuyện có vẻ hấp dẫn
vì không những các câu truyện đều mới lạ với đám trẻ trong lứa
từ 7 tuổi cho đến 15 tuổi mà còn vì tôi có khuynh hướng thêm chỗ
này bớt chỗ nọ cho câu chuyện thêm phần ly kì và lý thú. Cả đám
thường hả miệng chăm chú ngồi nghe một cách say sưa, suýt soa
khi đến phần nguy hiểm, vỗ tay khi người xấu bị loại và người
tốt thắng, hoặc la hét ngồi sát với nhau vì sợ ma trong các
chuyện kinh dị. Chị Agnès cũng thích thú lắng nghe như bọn nhỏ,
tuy có phần yên lặng, kín đáo hơn và ngồi tách xa hơn.
Một trong những truyện tôi kể, có lẽ
chị Agnès thích nhất là truyện Les Étoiles của Alphone D'Audet.
Đó là câu truyện ngắn về một chú chăn cừu thường xuyên đưa đàn
cừu của ông chủ lên núi và ở đó đôi khi cả vài tháng. Ở trên
cao, chú thường nhìn xuống so sánh ánh sáng làng mình với ánh
sáng của các vì sao trên trời, đồng thời nghĩ đến những sinh
hoạt hàng ngày tại trang trại, và đôi khi chú cũng mơ mộng về
Stephanette, cô con gái trẻ đẹp như thiên thần và rất thương
người của ông chủ. Ngày tiếp tế lương thực, chú không ngờ chính
Stephanette tình nguyện cỡi lưng lừa đem lương thực đến vì mọi
người trong trang trại đều bận. Quá bối rối và vui sướng vì đây
là lần đầu tiên được cô chủ nhỏ đích thân tiếp tế lương thực,
chú chăn cừu chỉ cho cô chủ bầy cừu, chỗ ăn ngủ của mình và
giảng bày sinh hoạt hàng ngày của mình... Khi cô chủ nhỏ chào ra
về vào xế trưa, chú cảm thấy tiếng đá lăn dưới móng chân lừa y
như tiếng đá rơi vào lòng chú. Vào lúc trời gần tối, bỗng dưng
chú nghe như ai gọi tên mình vọng lên từ dưới dốc, sau đó cô chủ
nhỏ bất ngờ xuất hiện trên lưng con lừa, không tươi cười như vừa
qua, mà ướt sũng, rét run và sợ hãi. Thì ra cô gần chết đuối khi
vượt qua con suối với nước dâng lớn và chảy xiết sau trận mưa
hồi đêm.
Thế
là chú phải an ủi Stephanette đừng quá lo lắng, rồi lăng xăng
dọn bữa ăn tối, soạn chỗ ngủ cho nàng nằm trong lán gần mấy con
cừu cho được ấm. Còn chú thì ra ngoài sân trống, nằm bên cạnh
đống củi bùng sáng trong lửa. Nhưng nàng không ngủ được vì các
con cừu cựa mình sột sột rồi be be. Nàng đành ra bên ngoài ngồi
gần đống lửa, bên cạnh chú. Chú cảm thấy thế giới đêm nay bỗng
trở nên huyền bí hơn với hương đêm ngọt ngào, những âm thanh của
thiên nhiên, tiếng nổ lách tách của các que củi cháy, những rung
động nhỏ nghe thật gần gũi của cây cỏ xung quanh, tiếng suối
văng vẳng nơi xa, những vì sao lấp lánh nhiều hơn trên trời...
Rồi chú giải thích cho nàng khi có sao băng xẹt trên trời tức là
phải cầu nguyện cho một linh hồn lên thiên đàng, chỉ cho nàng
thấy vị trí và tên những chùm sao, mà quan trọng nhất với nhóm
người chăn cừu là Sao Mục Đồng vì đó là Sao Hôm, kim chỉ thời
gian cho chú xua đàn cừu về chuồng và đó cũng là Sao Mai để lùa
chúng ra khỏi chuồng trước sáng. Thao thao kể chuyện, chú cảm
thấy có cái gì mịn màng êm ái đè nhẹ xuống vai mình. Thì ra nàng
đang tựa đầu vào vai chú thiêm thiếp giấc nồng. Về phần chú,
ngồi yên cho nàng tựa đầu, chú ngắm nhìn ngàn sao tiếp tục
chuyển động trầm lặng lung linh trên trời từ từ mờ dần trong ban
mai, để cảm nhận một ngôi sao nhỏ bé, sáng nhất và thanh tú nhất
đang lạc đường và đậu trên vai mình.
Giữa Thanh và tôi, chúng tôi luôn giữ
một khoảng cách tuy rằng, giống như mấy đứa cháu nhỏ kia, càng
lúc càng thân tình một cách tự nhiên, và tôi luôn miệng kêu
Thanh là chị Agnès - một sự nể nang kính trọng cho những người
tu hành, cũng như tôi cũng đã từng kêu Chú tất cả 11 bạn học
cùng lớp ở Providence nhưng đang tu tại Chủng Viện gần trường mà
về sau đều trở thành linh mục. Có lần tôi hỏi Thanh vì sao chọn
bổn mạng Agnès vì theo tôi tên Thánh Agnès không mấy thông dụng,
chị trả lời do mẹ đỡ đầu chọn. Khi vào dòng tu, chị mới biết
Agnès, có nghĩa là cừu con theo tiếng Latin, bị xử tử bởi quân
dữ La Mã vì đã làm nhiều phép lạ cứu người nhân danh Chúa Giê-su
khi chỉ vào khoảng 13 tuổi. Về sau Agnès được Giáo Hội Công Giáo
phong Nữ Thánh Agnès và là biểu tượng cho sự thanh khiết, lòng
trinh bạch, sự trong trắng mộc mạc.
Có một lần, tôi múa miệng khoe với chị
Agnès là tôi biết coi chỉ tay, vì tôi có đọc qua 2 cuốn sách La
Main Qui Parle và Les Lignes De La Main. Đó là hai cuốn sách mà
Măng tôi thường xuyên nghiên cứu và thỉnh thoảng giảng dạy cho
tôi đôi chút trong những khi cầm bàn tay tôi để so các chỉ tay.
Thế là chị đưa bàn tay cho tôi đọc. Tôi vừa cầm tay chị Agnès
vừa thao thao bất tuyệt giảng và chỉ vào lòng bàn tay các ligne
de vie, de tête, de coeur, de destinée mà nhiều người còn gọi là
ligne de chance và vài lignes nhỏ phụ khác như de santé, de
soleil, de l’amour, de l’argent, de l’intuition... thì bỗng ông
Ngoại của chị bước đến gần, trừng mắt với chị và ra dấu bắt chị
vào bên trong nhà. Chị Agnès đứng dậy đi ngay; phần tôi cảm thấy
mình thật vô ý, vụng về, và sượng cả người.
Kể từ tối hôm đó, những chuyến về thăm
cậu mợ của chị Agnès thưa dần. Mà nếu có thì cả hai chúng tôi cố
tình lẩn tránh không chạm mặt nhau, vì cảm giác luôn có sự theo
dõi nghiêm khắc của ông ngoại của chị làm chúng tôi cảm nhận
phần nào chút mặc cảm tội lỗi. Phần tôi quen thuộc dần nên theo
bạn cùng lớp vui chơi vào cuối tuần nhiều hơn, hai chị em Agnès
ít ở lại tối Thứ Bảy. Cuối niên học, sau khi đậu Bac 2, tôi rời
hẳn Đà Nẵng, về Huế thi vào học Y Khoa.
Hình 1 - Các
nữ tu khấn hứa trọn đời
(minh họa)
Hình số 2:
Làng Hòa Vân từ trên cao nhìn xuống
(từ
internet)
Hình số 3:
BS người Đức Malfred Ludwig,
BS Ngô Văn
Tường, và BS Hà Thị Như Minh
(tư liệu
cá nhân)
Vào cuối năm thứ 2 Y Khoa, tôi nghe tin chị Agnès đậu tú tài toàn, nhận được ơn kêu gọi, đồng thời xác tín tình yêu thương của Thiên Chúa dành cho mình khi chị khấn hứa trọn đời và chính thức trở thành một nữ tu Dòng Thành Tâm (hình số 1). Một vài năm sau, Chị Agnès nhận trách nhiệm đến phục vụ trại cùi tại làng Hòa Vân, được xây dựng bởi một Mục Sư người Mỹ vào đầu năm 1968 và ẩn mình kín đáo dưới chân núi Hải Vân nhìn ra biển (hình số 2), mà phía trái là biển Lăng Cô. Đây cũng là nơi mà các bệnh nhân trại cùi ở Huế, vốn nằm ở phía sau BV Huế, được chuyển đến, khi cơ sở tại Huế bị thiệt hại nặng trong biến cố Mậu Thân 1968. Vài năm sau, khi dân số làng cùi Hòa Vân đạt trên ba trăm người, do từ những trại cùi các địa phương khác đưa về, bao gồm vừa bệnh nhân và gia đình của họ, đó chính là thời điểm chị Agnès đến tăng cường nhóm 2 nữ tu có sẵn, đem lòng thương khó phục vụ dân làng cùi, trực tiếp chung sức săn sóc bệnh nhân, chăm lo đời sống tinh thần và sức khỏe cho dân làng, xây dựng từ từ bệnh xá nhỏ, nhà sinh hoạt, nhà nguyện, củng cố niềm tin và lòng tự trọng cho bệnh nhân cùi luôn cảm thấy bất hạnh và mặc cảm vừa bị trời phạt vừa bị xã hội kỳ thị, hất hủi và ruồng bỏ. Về vật chất, dân Làng Hòa Vân sống nhờ vào hỗ trợ xã hội từ chính phủ và cơ quan y tế địa phương và từ những thu hoạch riêng của họ qua trồng trọt, chăn nuôi và đánh lưới bắt cá cận biển.
Hình số 4:
Từ bên phải qua trái: BS Như Minh, chồng là
BS Tường, và BS Lê Thị Mỹ (ngồi quay mặt.
BS Mỹ mất tích trên biển sau biến cố 1975
trên đường tìm tự do).
(Tư liệu cá
nhân)
Từ năm
1972, bệnh viện Đức Malteser tại Đà Nẵng chính thức đảm trách
chữa trị cho làng Hòa Vân. Các toán y tế bao gồm các BS người
Đức của bệnh viện Malteser, như BS Malfred Ludwig, BS Zimmerman
(phụ chú hình số 2) cùng với các đồng nghiệp BS tốt nghiệp từ
trường Y Khoa Huế, như BS Ngô Văn Tường (BV Malteser) cùng vợ là
BS Hà Thị Như Minh (Trung Tâm Y Tế Toàn Khoa ĐN), BS Lê Thị Mỹ
(hình số 2), BS Trần Tiễn Lương Hoa (BV Malteser) nhận trách
nhiệm săn sóc sức khỏe làng cùi Hoa Vân. Đây là một việc làm
phát xuất từ lòng từ tâm của các vị BS và họ đã đến thăm, khám
bệnh cho thuốc từng mỗi cuối tuần. Thỉnh thoảng các BS Giải Phẫu
người Đức cũng tham gia hội chẩn và chọn các bệnh nhân đã âm
tinh với vi trùng cùi Hansen để đưa vào bệnh viện Malteser giải
phẫu chỉnh hình tay chân hay ghép lông mày.
Tháng 8, 1974, khi đoàn xe chuyển quân
Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù của tôi trên đường từ Điện Bàn đến tham
chiến tại một vùng phía Tây Đà Nẵng tạm ngừng di chuyển, tôi
nhảy xuống xe và tình cờ nhìn thấy một giáo đường nhỏ nằm về
phía phải và cách quốc lộ 14 chừng vài trăm thước. Tôi bước vào
nhà thờ bấy giờ vắng hoe, đứng ở góc gần cửa ra vào, đọc kinh
cầu nguyện xin Ơn Trên phù hộ cho tôi trong chuyến vào trận đầu
đời lính của mình. Bước ra khỏi nhà thờ, tôi thấy một nữ tu
trong bộ đồ màu xanh nhạt, có mang lúp cùng màu trên đầu, dáng
người nhỏ và gầy; tôi tiến lại gần người nữ tu hỏi tên của nhà
thờ giáo xứ. Sau đôi ba câu mở đầu, bỗng chị nữ tu thốt lên “Xin
lỗi ông, có phải ông là em của mợ Châu trước đây ở Đà Nẵng
không?” Đang khi tôi chưa kịp nhớ tên người bà con, người nữ tu
nói tiếp liền, có lẽ vừa đọc bảng tên màu đen của tôi trên áo
trận “Và ông tên Chánh phải không?”
Thế là chị Agnès và tôi cùng nhận ra
nhau. Trong ít phút nói chuyện, Chị Agnès cho biết chị khấn hứa
trọn đời vào cuối năm 1969. Sau trên một năm làm việc tại một
giáo xứ trong Quảng Tín, chị được điều về làm việc ở làng Hòa
Vân từ đầu năm 1971. Khi số bệnh nhân cùi trong làng Hòa Vân
giảm dần vì tiến triển bệnh tình khả quan, phần lớn do sự tận
tụy chữa bệnh của các bác sĩ Đức - Việt và sự sử dụng hữu hiệu
các trụ sinh mới, vào đầu năm 1974, chị được Mẹ Bề Trên chuyển
đến nhà thờ Ái Nghĩa này, tại quận Đại Lộc, phụ trách dạy giáo
lý cho các em trong giáo xứ. Phần tôi cho chị biết tôi nay là
một bác sĩ nhảy dù và đơn vị đang di chuyển vào vùng hành quân.
Chị vừa chỉ tay về hướng núi trước mặt vừa cho biết là trong mấy
ngày qua dân trong vùng này dồn dập dắt nhau tản cư đi nơi khác
sau khi có tin Việt Cộng chiếm được quận Thường Đức nằm không
quá xa nơi đây. Trước khi chào nhau tạm biệt, tôi chúc chị Agnès
nhiều ơn phước trong sứ mệnh rao giảng đức tin và tình thương,
và nhờ chị góp lời cầu nguyện cho tôi được bình an trong cuộc
hành quân.
Đó
là lần cuối cùng tôi gặp chị Agnès. Vào lần chuyển vùng hành
quân vài tháng sau đó, vào một ngày lạnh có mây xám và mưa của
tháng 1, 1975, trong tôi không còn có những nao nức bồn chồn sôi
động của lần mới vào vùng. Với tâm trạng của một người lính sống
qua sự tàn phá chết chóc của trận chiến, miên man suy tư về
những khuôn mặt cương nghị, những ánh mắt quyết tâm, những tên
không kịp nhớ nay đã ra đi, và những chiến binh sống sót giờ đây
im lặng ngồi tư lự bên cạnh tôi trong cùng chiếc GMC, tôi chẳng
để ý đến ngôi nhà thờ đoàn xe bỏ lại đằng sau hồi nào. Để tự hỏi
Chị Agnès còn yên bình ở đó, nhà thờ có bị trúng pháo địch...
Qua một thời gian dài hơn cả một phần
ba thế kỷ, và sau bao trôi nổi của cuộc đời, tôi có dịp liên lạc
với đứa cháu có mặt cùng thời với tôi trong nhà anh chị Châu ở
Đà Nẵng, và được cho biết anh chị Châu có cuộc sống ổn dịnh tại
Pháp, 4 đứa con đều thành đạt. Người em gái của chị Agnès về sau
cũng trở thành một nữ tu và đã về hưu trí tại nhà dòng Thánh Tâm
ở Đà Nẵng. Riêng chị Agnès tình nguyện trở lại phục vụ người
cùi, không phải ở làng Hòa Vân mà tại trại cùi Quy Hòa, cách thị
xã Quy Nhơn khoảng mươi cây số, sau khi làng Hòa Vân lần lượt bị
giải tỏa bởi chính quyền mới, với tin truyền miệng một số bệnh
nhân bị chết khi chiếc tàu chở họ bị đắm ngoài biển, do tai nạn
hay do bàn tay sắp xếp của nhóm người vô thần, và số còn lại
được đưa vào Quy Hòa. Một số ít khác được cho ra Đà Nẵng nếu xét
tình trạng căn bệnh phần nào ổn định.
Trại Quy Hòa, yên tĩnh và biệt lập
trong một thung lũng bao quanh ba mặt bởi núi và mặt còn lại
tiếp giáp với biển, được thành lập từ đầu thế kỷ 20 do BS người
Pháp Lemoine hợp chung với các cố đạo và nữ tu người Pháp. Nơi
đây cũng là nơi có ngôi mộ của thi sĩ Hàn Mạc Tử, một bệnh xá
khá rộng, cả trăm căn nhà lớn nhỏ cho bệnh nhân và một giáo
đường nghe nói có móng sâu bằng chiều cao của nhà thờ để chống
bão. Trước 1975 một năm và vài năm sau đó, lượng bệnh nhân cùi
và gia đình gia tăng rất nhiều, có khi đạt đến trên cả năm ngàn
người, khiến công việc nuôi ăn, săn sóc, chữa trị, phục vụ...
trở nên khó khăn và phức tạp, đòi hỏi thêm nhân lực và thiện
chí. Với kinh nghiệm từng làm việc với bệnh nhân cùi, lòng tận
tụy và đức hy sinh sẵn có, chị Agnès lại lên đường tận hiến thêm
một lần nữa cuộc đời mình cho nhóm người cùng cực nhất của trần
gian, mang đến cho họ tình thương và niềm hy vọng. Để cuối cùng
chị qua đời ngay tại trại Quy Hòa, nơi chị cống hiến cả 25 năm
cuối cuộc đời mình, giữa sự thương mến vô tận của đại gia đình
cùi của trại.
Tôi không thể biết khi chị Agnès vĩnh
viễn nhắm mắt, có ngôi sao băng nào xẹt ngang trên trời cao
không? Nhưng tôi nghĩ chị luôn sẵn sàng đón nhận ánh sáng vĩnh
cữu từ hằng bao triệu sao khác đã có mặt trên thiên đàng.
Xin Chúa nhân từ cho linh hồn Agnès
được yên nghỉ muôn đời và ánh sáng ngàn thu luôn soi sáng lên
linh hồn chị.
Giờ đây, trại Hòa Vân hoàn toàn bị xóa
tên, nhà cửa cơ sở bỏ hoang phế, kể từ khi vùng đất xanh đẹp yên
tĩnh này bị các lãnh đạo địa phương chiếu cố, và trưng dụng cho
dự án xây cơ sở dưỡng hưu lớn cho các thành phần giàu có cao
cấp. Trại Quy Hòa cũng chịu một số phận tương tự, biến thành một
thắng cảnh du lịch, là nơi du khách đến tắm biển và thăm viếng
ngôi mộ của Hàn Mạc Tử nhiều hơn các cơ sở đã từng là nơi ở, nơi
săn sóc, nơi sinh hoạt, bệnh xá, di tích của những bệnh nhân
cùi... Tuy nhiên, khách đường xa thỉnh thoảng vẫn được cho nhìn
thấy một vài bệnh nhân cũ lảng vảng đây đó trong trại. Như một
trưng bày vô cảm không hơn không kém cho mục đích thương mãi.
Vĩnh Chánh
Mission
Viejo,
Ngày 27, tháng 6, 2018
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
THIÊN SỨ MICAE - BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: Bộ Huy hiệu Sư Đoàn Nhảy Dù QLVNCH. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Tôn Thất Sơn chuyển
Đăng ngày Thứ Tư, August 1, 2018
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang