Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tài liệu
biên khảo
Chủ đề:
tiếng việt
Tác giả:
Phạm Trần Anh
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
v/v VINH
DANH LINH MỤC BỒ ĐÀO NHA FRANCISCO DE PINA – TẠP CHÍ DÂN
VĂN.
Kính thưa quý vị,
Trước
hết tôi xin chân thành cám ơn toàn thể quý vị đã bớt chút
thì giờ quý báu để đến đây tham dự buổi vinh danh, cám ơn
những người đã có công khai sinh ra lối chữ viết theo a,b,c
mà chúng ta gọi là chữ Quốc ngữ ngày hôm nay.
Thưa
quý vị,
Không phải tới ngày hôm nay chúng ta mới vinh
danh Linh mục Alexandre De Rhodes trước đây gọi là Linh mục
A Lịch Sơn Đắc Lộ mà năm 1941, chính quyền thực dân bảo hộ
đã khắc một tấm bia đặt ở bên bờ Hồ Hoàn Kiếm ở Hà Nội và
năm 1955, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đã phát hành mộ con
tem và đặt tên Alexandre De Rhodes cho một con đường ở thành
phố Sài Gòn. Sau này, tại Sài Gòn chúng ta cũng có một Thư
viện và một Cư xá lấy tên là Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes).
Thế nhưng, vấn đề chữ quốc ngữ ngày nay lại trở nên ý
nghĩa và quan trọng hơn khi mới đây tập đoàn Việt gian Cộng
sản bất nhân hại dân bán nước chính thức bắt các em học sinh
từ cấp 1 đến cấp 3 phải học tiếng Tàu, sinh ngữ chính trong
năm học tới, đồng thời tung ra đề án cải cách tiếng Việt,
sửa đổi cách viết và phát âm lơ lớ tiếng Ô Mã Nhi trên sông
Bạch Đằng năm xưa để xóa bỏ chữ Quốc ngữ nói riêng và văn
hóa Việt Nam nói chung. Chính vì vậy, hơn lúc nào hết, chúng
ta phải trân trọng bảo tồn chữ Quốc ngữ, cũng như tri ân
những người có công tạo ra lối chữ Việt viết theo a,b,c mà
chúng ta thường nói là La–tinh hóa chữ viết.
Thưa quý
vị,
Trong quá khứ chúng ta đã vinh danh Linh mục
Alexandre de Rhodes là “Thủy Tổ” của chữ Quốc ngữ như những
bài viết ca ngợi thái quá của một số học giả trước đây. Ngày
nay, sự thật về sự khai sinh lối chữ Quốc ngữ khiến chúng ta
phải phục hồi sự thật lịch sử về vấn đề này. Sự thật này đã
được Linh mục Alexandre de Rhodes viết trong “Lời nói đầu”
quyển Tự điển Việt – Bồ – La rằng linh mục học tiếng Việt
lúc đầu với giáo sĩ Francisco de Pina và linh mục đã sử dụng
các công trình tự điển viết tay An Nam – Bồ, Bồ – An Nam của
các giáo sĩ Gaspar d’Amaral và Antonio Barbosa...
Chính giáo sĩ Alexandre de Rhodes đã xác nhận không phải là
người duy nhất đã sáng tạo ra chữ quốc ngữ mà đó là công
trình tập thể của các nhà truyền giáo khác như giáo sĩ F. De
Pina, Gaspar d’Amaral, và Antonio Barbosa... nằm trong một
khuôn khổ những nỗ lực phiên âm các thứ tiếng có chữ tượng
hình ở Viễn Đông do các thừa sai châu Âu khởi xướng từ thế
kỷ thứ 16. Công trình khai sinh ra lối chữ Quốc ngữ lần đầu
tiên chính là Giáo sĩ người Bồ Đào Nha F. De Pina, đến “Đàng
Trong” năm 1617 học tiếng Việt và là nhà truyền giáo đầu
tiên dùng tiếng Việt để truyền đạo. Năm 1624, giáo sĩ F. De
Pina dạy tiếng Việt cho giáo sĩ Alexandre De Rhodes, năm
1625 giáo sĩ bị chết đuối ở vũng Đà Nẵng ngày 15/12/1625 khi
cứu hành khách trên một chiếc thuyền bị đắm. Nếu Giáo sĩ
Francisco de Pina không bị chết đuối thì chính giáo sĩ mới
là người đầu tiên có công ký âm tiếng Việt cổ sang lối viết
chữ a–b–c và xuất bản quyển sách “Nhập môn tiếng Đàng Ngoài”
dài 22 trang dạy cho người mới học tiếng Việt mà nhà nghiên
cứu R. Jacques mới tìm thấy ở Thư viện Quốc gia tại Lisbon
(Bồ Đào Nha).
Chính giáo sĩ Alexandre De
Rhodes đã xác nhận: “Tuy nhiên trong công cuộc
này, ngoài những điều mà tôi đã học được nhờ chính người bản
xứ trong suốt gần mười hai năm, thời gian mà tôi lưu trú tại
hai xứ Cô–sinh và Đông–kinh (tức Đàng Trong và Đàng Ngoài –
AC), thì ngay từ đầu tôi đã học với Cha Francisco de Pina
người Bồ Đào, thuộc Hội Dòng Giê–su rất nhỏ bé chúng tôi, là
thầy dạy tiếng, người thứ nhất trong chúng tôi rất am tường
tiếng này, và cũng là người thứ nhất bắt đầu giảng thuyết
bằng phương ngữ đó mà không dùng thông ngôn, tôi cũng sử
dụng những công trình của nhiều Cha khác cùng một Hội Dòng,
nhất là của Cha Gaspar de Amaral và Cha Antonio Barbosa
(Chúng tôi nhấn mạnh – AC), cả hai ông đều đã biên soạn mỗi
ông một cuốn từ điển: ông trước bắt đầu bằng tiếng An Nam
(tức là từ điển Việt–Bồ – AC), ông sau bằng tiếng Bồ–Đào
(tức là từ điển Bồ–Việt – AC), nhưng cả hai ông đều đã chết
sớm. Sử dụng công khó của hai ông, tôi còn thêm tiếng
La–tinh theo lệnh các Hồng y rất đáng tôn...”.
“(...) ước gì các Ngài trở nên những người truyền bá
nhiều phương ngữ, để không những các nước lân cận và quen
biết từ xưa được nghe những sự kỳ diệu của Thiên Chúa mà cả
mọi miền dưới bầu trời và những vương quốc rất xa xôi ở cực
Đông từ nhiều thế kỷ qua chưa được nghe, thì bây giờ những
nước ấy cũng phải được nghe và rao truyền danh Chúa huyền
diệu biết bao trên khắp trái đất (...). Mà lại để Lời Thiên
Chúa thâm nhập dễ dàng hơn tới tận cùng Hoàn cầu, nơi người
Đông–kinh và Cô–sinh, tức là tất cả mọi người An Nam đang
chiếm cư, thì bây giờ lòng đại lượng bao la của quý vị cũng
truyền lệnh thực hiện quyển từ điển của dân tộc An Nam, một
quyển từ điển giúp ích cho những người làm công tác Tông đồ
được chỉ định cho phần vườn nho này của Chúa, hầu họ hiểu
biết phương ngữ xa lạ của người An Nam, tức là để những mầu
nhiệm Thiên Chúa được giãi bày cho người An Nam, đồng thời
cũng để người An Nam vừa làm quen với chính Đức Tin Rô–ma và
Tông đồ, vừa làm quen với phương ngữ Rô–ma và La–tinh. Ai mà
không thấy việc đó trong tương lai có lợi là chừng nào cho
công cuộc truyền bá đức tin của Chúa Ki–tô được rộng rãi và
chắc chắn hơn”.
[1]
Thật vậy, các bậc thức giả như Dương Quảng Hàm, Đào Duy
Anh, Nguyễn Khắc Xuyên, Thanh Lãng, Đỗ Quang Chính, Võ Long
Tê đều khẳng định chữ quốc ngữ là một công cuộc chung của
nhiều người.
Linh mục Đỗ Quang Chính nhận
định:
“Đắc–Lộ không phải là người Âu châu đầu tiên học
tiếng Việt, cũng không phải người đầu tiên sáng tác chữ quốc
ngữ, hơn nữa, vào năm 1636 Đắc–Lộ cũng không phải là người
ghi chữ quốc ngữ đúng được như một số Linh mục Dòng tên Bồ
Đào Nha ở Việt Nam thời đó. Thật ra, trong giai đoạn thành
hình chữ quốc ngữ, Đắc–Lộ chỉ góp một phần trong công việc
quan trọng này, mà rõ rệt nhất là soạn sách chữ quốc ngữ và
cho xuất bản đầu tiên”.
Linh mục Thanh
Lãng, Chủ Tịch Văn Bút Việt Nam trước 1975 đã khẳng định:
“Giáo sĩ Đắc Lộ không những không phải là ông tổ duy
nhất của chữ quốc ngữ mà cũng không phải là một trong các
ông tổ của chữ quốc ngữ... Sở dĩ Đắc Lộ về sau này được lịch
sử nhắc nhở đến nhiều, có lẽ không phải vì ông đã có công
kiện toàn chữ quốc ngữ cho bằng ông đã để lại hai quyển sách
Từ điển Việt–Bồ–La và Phép giảng tám ngày được coi như tài
liệu duy nhất về chữ quốc ngữ.”
Các Thừa Sai
cũng đã La–tinh hóa tiếng Thái, tiếng Tàu, tiếng Nhật...
nhưng không thành công, duy chỉ có Việt Nam lối chữ Quốc Ngữ
này trở nên phong phú, phổ biến rộng rãi nhờ những nho sĩ
tân tòng trở thành “Thầy giảng” đã góp phần lớn trong việc
hình thành và hoàn chỉnh từng bước một lối chữ Quốc ngữ mới
lạ này để ngày nay trở thành chữ viết chính thức của nước
ta.
Theo công
trình nghiên cứu của học giả Nguyễn Đoàn Tuân thì Tiếng
Việt, chữ Việt theo bản chữ đời Hùng để lại từ đời Thánh Tản
Viên cho Cao Thông, đệ tử của Thánh Tản Viên. Sau này, Trịnh
Bồng đã được bản chữ đó và chính bản chữ đó đã giúp cho thầy
Raphael Quý dạy cho giáo sĩ F. De Pina và Alexandre de
Rhodes để chuyển sang mẫu tự La–tinh, là chữ Quốc Ngữ bây
giờ. Giáo Sĩ Đắc Lộ ở trong Nam (Đàng Trong) nghe ở Thanh
Hoá (Đàng Ngoài) còn có người biết tiếng Việt cổ nên đã ra
địa phận Thanh Hoá gặp được thầy Raphael Quý là người có
duyên còn giữ được bản chữ đời Hùng. Nhờ thiên phú có tài về
ngôn ngữ nên cả hai đã cùng nhau hợp tác giải mã những dấu
hiệu chữ mô tả âm thanh của đời Hùng theo chữ La–tinh để
chúng ta có được lối chữ Quốc ngữ ngày nay. Như vậy, ông Tổ
chữ Quốc ngữ là bản chữ đời vua Hùng theo lối tiêu âm mà
ghép thành văn tự.
Cũng theo nhà nghiên cứu Nguyễn
Đoàn Tuân thì trong lịch sử ngôn ngữ chỉ có Việt tộc mới có
chữ viết và tiếng nói ăn khớp với nhau được chứng minh bởi
Đồ Phổ Trống Đồng. Thuở xa xưa, tộc Việt cư ngụ ở Trung
nguyên nên tiếng Việt tổng hợp các ngữ vị và âm vị của 4
phương thiên hạ. Tiếng Việt và chữ Việt là hệ thống Tiêu âm
là thiết âm tức là loại tiếng đánh vần được. Nhờ đó âm lại
được mọi thứ tiếng của các nước nên ngữ vị và âm vị tiếng
Việt hết sức phong phú nên chỉ ở Việt Nam trở thành chữ viết
cho cả nước trong khi việc La–tinh hóa chữ viết các nước
Lào, Cambodia, Tàu, Nhật không thành công.
Chính vì vậy, “Thủy
Tổ” của chữ Quốc Ngữ chính là tiếng nói, chữ viết Việt Cổ
gọi là tiếng Nôm (tiếng Nam) từ thời vua Hùng của chúng ta.
Các giáo sĩ F. De Pina, Gaspar d’Amaral, Antonio
Barbosa, và Linh mục Alexandre De Rhodes cùng các thầy
Raphael Quý, các thầy giảng Việt Nam Igesico Văn Tín, Ben–tô
Thiện với những tác phẩm quốc ngữ xuất sắc được lưu lại từ
năm 1659 là những người có công trong việc phiên âm, ký tự
tiếng Việt cổ thành lối chữ viết và đánh vần theo a,b,c của
chữ La–tinh để thành hình lối chữ Quốc ngữ ngày nay.
Lối chữ a,b,c được chính thức công nhận là chữ Quốc
ngữ từ khi nào?
Thưa quý vị,
Kể từ
khi lối chữ chữ viết theo a,b,c do các Cố đạo truyền giáo
xuất hiện đầu tiên trong bộ Từ Điển An Nam – Bồ Đào Nha –
La–tinh gọi tắt là Tự điển Việt–Bồ–La mục “Phép giảng tám
ngày” được Tòa thánh La Mã xuất bản năm 1651 và nhà cầm
quyền Thực dân Pháp bắt buộc người dân Việt Nam phải học đã
gặp phải sự chống đối quyết liệt của giới sĩ phu và toàn thể
người Việt Nam yêu nước thời bấy giờ. Kể từ khi thành hình
cho đến khi được mọi người Việt Nam thừa nhận là chữ Quốc
Ngữ, chữ viết của Việt Nam đã trải qua một thời gian lâu dài
hàng thế kỷ do sự đề kháng tất yếu của tự tình dân tộc như
câu thơ dân gian của một sĩ phu miền Nam Đồ Chiểu: “Thà đui
mà giữ đạo nhà, còn hơn sáng mắt ông cha không thờ...”.
Chúng ta hãnh diện tự hào với truyền thống yêu nước thương
nòi mà trải qua gần 1 ngàn năm đô hộ kẻ thù truyền kiếp chủ
trương Hán hóa thâm độc quỷ quyệt, người Việt vẫn giữ nguyên
được bản sắc văn hóa truyền thống Việt.
Khi chữ Quốc
ngữ ra đời, nhà cầm quyền thực dân Pháp đã tìm cách thúc đẩy
sự truyền bá chữ quốc ngữ tại “Thuộc Địa Nam Kỳ” bằng cách
đưa vào quy định bổ nhiệm, thăng tiến cho quan chức hay miễn
thuế cho dân ở Nam Kỳ. Phó Đô Đốc Marie Gustave Hector Ohier
ký nghi định bắt buộc dùng chữ Quốc ngữ thay thế chữ Nho
trong các công văn ở Nam Kỳ nhưng đến năm 1879, thực dân
Pháp mới chính thức đưa vào chương trình giáo dục ở Nam Kỳ.
Thế nhưng, thực dân Pháp lại sợ lối chữ dễ học này phổ biến
đến quảng đại quần chúng kích động lòng yêu nước nên chỉ
hạn chế cho khoảng 10% dân số biết mà thôi.
[1]
Việc cổ động cho học “chữ Quốc ngữ”
ở toàn cõi Việt Nam từ năm 1890 đến năm 1910 với các phong
trào cải cách như Hội Trí Tri, phong trào Duy Tân, Đông Kinh
Nghĩa Thục, và đến năm 1867 mới chính thức xuất hiện trên tờ
Gia Định Báo của Nguyễn văn Vĩnh ở Sài Gòn cùng với Pétrus
Ký, Paulus Huỳnh Tịnh Của, Hồ Biểu Chánh đã cổ vũ học chữ
Quốc ngữ: “Tiếng
Việt còn, nước ta còn...”,
như là phương tiện thuận lợi cho học hành nâng cao dân trí.
Công trình nghiên cứu mới đây của Liam Kelley (2016) cho
thấy chính nhà Nguyễn mới là người đi đầu trong công cuộc
cải cách giáo dục và lối chữ a,b,c mới chính thức được gọi
là chữ Quốc ngữ năm 1906. Thật vậy nhà vua Thành Thái công
bố sắc lệnh cho phép cha mẹ có thể quyết định việc cho con
theo học một trường ấu học Hán văn hoặc một chương trình
giảng dạy Nam âm (Quốc ngữ). Đồng thời, nhà vua cũng chỉ thị
soạn một cuốn sách giáo khoa bằng quốc ngữ để dạy những
người theo chương trình học “Nam âm” nhằm giới thiệu cho họ
những thông tin căn bản về xứ Đông Dương, thiết chế cai trị
của nó, những phong tục tập quán... (Liam Kelley (2016):
“Emperor Thành Thái’s Educational Revolution”, sử gia Liam
Kelley đã công bố sắc lệnh của Hoàng Đế Thành Thái được lưu
trữ trong sách Đại Nam Hội Điển Sử Lệ Tục Biên).
Năm
1889, vua Thành Thái lên ngôi sau 5 năm triều Nguyễn buộc
phải ký hiệp ước Patenôtre 6/6/1884 chấp nhận Nam Kỳ thuộc
địa và miền Bắc đặt dưới sự bảo hộ của thực dân Pháp.... Là
một nhà vua trẻ tuổi yêu nước có tinh thần cầu tiến nên học
tiếng Pháp, đọc sách tìm hiểu về nền văn minh phương Tây...
nên nhà vua từ bỏ những thiết chế triều nghi quân chủ phương
Đông, ngoài những nghi lễ chính thức của triều đình, nhà vua
theo lối sống tân học, cắt tóc ngắn, mặc âu phục...
Là một người yêu nước, nuôi chí hướng khôi phục chủ quyền và
canh tân đất nước nên nhà vua thường xuyên tiếp xúc với giới
sĩ phu yêu nước, trọng dụng nhân tài thanh liêm đức độ để
bổ sung vào giới quan lại chỉ lo hưởng thụ... Ngay sau khi
nhà cách mạng Phan Chu Trinh đề ra phong trào Duy Tân kêu
gọi giới sĩ phu thức tỉnh, từ bỏ lối học từ chương kinh điển
của nho gia, cắt tóc ngắn, mặc âu phục theo cách sống tân
thời và học chữ a,b,c để nâng cao dân trí, chấn hưng dân khí
thì nhà vua công bố sắc lệnh học chữ Quốc ngữ năm 1906.
Sau khi vua Thành Thái phải thoái vị, nhà vua trẻ tuổi
yêu nước Duy Tân lên ngôi tiếp tục việc cổ súy học chữ Quốc
ngữ. Nhà vua lập ra Bộ Học, cải cách nền giáo dục với chủ
trương học hành thi cử thực dụng, không từ chương kinh điển,
không học để lấy bằng cấp mà phải học lấy thực tài để ra
giúp dân, giúp nước... Tuy vậy, triều Nguyễn vẫn buộc thí
sinh thi Hương phải thi luận văn cả bằng chữ Hán và chữ Quốc
ngữ, mãi đến ngày 28/12/1918, vua Khải Định mới ra Đạo dụ
bãi bỏ thi cử bằng chữ Hán và năm 1919 là năm tổ chức kỳ thi
Hương cuối cùng. Chữ Quốc ngữ trở thành lối chữ chính thức
của nước ta kể từ đó...
Việc làm yêu nước của vua
Thành Thái được giới sĩ phu và toàn dân từ Nam ra Bắc ủng hộ
nhiệt liệt khiến thực dân Pháp lo sợ, nên năm sau 1907, thực
dân Pháp ép nhà vua phải thoái vị và bị quản thúc tại Vũng
Tàu đến năm 1916 bị đày sang đảo Réunion. Hành động yêu nước
của vua Thành Thái cổ súy việc học chữ Nam, cắt tóc ngắn gần
gũi với người dân đã gây nên một phong trào tân học, thanh
niên đồng loạt cắt tóc ngắn từ thành thị lan tỏa xuống nông
thôn. Sau khi thực dân Pháp buộc vua Thành Thái phải thoái
vị thì toàn dân xuống đường biểu tình đòi giảm sưu thuế bùng
nổ khắp nơi. Tháng 3 năm 1908, bắt đầu từ tỉnh Quảng Nam quê
hương của nhà cách mạng Phan Chu Trinh, nông dân đầu cắt tóc
ngắn, đi thành từng đoàn người lũ lượt kéo đến các phủ huyện
đòi giảm sưu giảm thuế. Phong trào lan rộng mau chóng ra
Nghệ An, Hà Tĩnh ngoài Bắc, và Phú Yên Bình Định trong Nam
khiến thực dân Pháp lo sợ trước phong trào Dân Biến Trung
Kỳ, thể hiện sức mạnh của toàn dân Việt Nam.
Đến năm
1917, Nam Phong Tạp Chí là một tờ Nguyệt san do Học giả Phạm
Quỳnh làm chủ nhiệm kiêm chủ bút xuất bản đầu tiên ngày 1
tháng 7 năm 1917. Phạm Quỳnh chủ biên phần chữ Quốc ngữ và
Dương Bá Trác phần chữ Nho, trong suốt 17 năm với 210 số
báo, Nam Phong Tạp Chí đã góp phần vào việc truyền bá chữ
Quốc ngữ.
Ngày 10/12/1932, Hoàng Đế Bảo Đại công bố
Đạo dụ quy định nước ta theo chế độ Quân chủ Lập hiến, nhà
vua sẽ trực tiếp điều khiển nội các thực hiện việc cải cách
hành chính, giáo dục, và tư pháp. Nội các đầu tiên được
thành lập bao gồm những trí thức trẻ tân học như Ngô Đình
Diệm làm Thượng Thư Bộ Lại, Bộ Học được đổi tên là Bộ Giáo
Dục giao cho Phạm Quỳnh là chủ nhiệm báo Nam Phong một người
luôn tha thiết với chữ Quốc ngữ nên môn dạy chữ Quốc ngữ
được tăng thời lượng.
Công cuộc hoàn thiện chữ Quốc
ngữ trở thành súc tích văn chương hơn phải ghi nhận sự đóng
góp của nhóm Tự Lực Văn Đoàn. Sự ra đời của Tờ Phong Hóa và
nhóm Tự Lực Văn Đoàn chính thức thành lập ngày 2/3/1934 quy
tụ các nhà văn nổi tiếng trong văn đàn Việt Nam thời bấy giờ
như Khái Hưng, Tú Mỡ, Hoàng Đạo, Thạch Lam cùng nhiều văn
nghệ sĩ có tài khác như: Vi Huyền Đắc, Đoàn Phú Tứ, Thanh
Tịnh, Xuân Diệu, Huy Cận. Tự Lực Văn Đoàn chủ trương sáng
tác văn chương với một lối văn giản dị, dễ hiểu, ít chữ nho,
một lối văn thật có tính cách An Nam đã góp phần không nhỏ
trong những tác phẩm văn học để chữ Quốc ngữ văn chương và
phổ biến rộng rãi trên toàn quốc. Tự Lực Văn Đoàn đã thổi
một luồng gió khai phóng vào xã hội Việt Nam thoát khỏi sự
ràng buộc của những hủ tục lề thói lỗi thời, không còn thích
ứng được với nhu cầu thời đại và tìm ra hướng đi mới cho văn
học Việt Nam.
Ngày 25/5/1938, Hội Truyền bá Quốc ngữ
được thành lập và phát động phong trào học chữ Quốc Ngữ trên
toàn quốc do Nguyễn văn Tố làm Hội Trưởng, Bùi Kỷ và Tôn
Thất Bình làm Hội Phó. Cố vấn gồm các học giả nổi tiếng là
Trần Trọng Kim, Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn văn Huyên, và Lê
Thước để truyền bá chữ Quốc ngữ trong quảng đại quần chúng.
Học giả Hoàng Xuân Hãn đang dạy tại trường Bưởi (Chu văn An
sau này) được mời làm cố vấn và giáo sư là người soạn quyển
sách học đánh vần chữ Quốc ngữ đầu tiên mà ngày nay, một số
người trong chúng ta vẫn còn thuộc nằm lòng những câu như:
“I tờ hai móc cả
hai. I ngắn có chấm, tờ dài có ngang.
O
tròn như quả trứng gà. Ô thời đội mũ, ơ là thêm râu”
và:
“huyền
ngang, sắc dọc, nặng tròn;
hỏi lom khom đứng, ngã buồn...
nằm ngang”.
“Hội Truyền
bá quốc ngữ là
một trường đào tạo, giáo dục thanh niên ngoài xã hội. Một
mặt nó luyện cho thanh niên những đức tính cần thiết trong
cuộc sống. Mặt khác, nó giúp thanh niên tránh được những
cuộc vui chơi không lành mạnh cờ bạc, trai gái, rượu chè...
và giáo dục lòng yêu nước thương nòi cho thanh niên thời bấy
giờ”.
Chính nhờ những đóng góp trên nên giới trẻ tân học, giới
trí thức tiểu tư sản đã ý thức được lối học từ chương kinh
điển lỗi thời cùng với lối chữ Nho rắc rối phức tạp, khó phổ
biến tới toàn dân để nâng cao dân trí, chấn hưng dân khí nên
đã tiếp nhận và hoàn thiện chữ Quốc ngữ để kêu gọi lòng yêu
nước của toàn dân đứng lên chống Thực dân Pháp.
Sau
khi quân phiệt Nhật đảo chánh thực dân Pháp, Hoàng Đế Bảo
Đại triệu tập Cơ Mật Viện tuyên bố hủy bỏ hiệp ước Patenôtre
6/6/1884 quy định thực dân Pháp đô hộ và chính thức tuyên bố
khôi phục nền độc lập dân tộc ngày 11/9/1945. Sử gia Trần
Trọng Kim thành lập nội các với Bộ trưởng Giáo dục Hoàng
Xuân Hãn tiến hành công cuộc cải cách nền giáo dục, chính
thức dạy chữ Quốc ngữ cho các học sinh trên toàn quốc. Học
giả Hoàng Xuân Hãn là người có công lao lớn khi soạn cả sách
toán và kỹ thuật bằng tiếng Việt Quốc ngữ để dạy ngay
trong niên học 1945–46 tại miền Bắc và miền Trung. Trong khi
đó, đảng Cộng sản Việt Nam núp dưới danh nghĩa đảng Lao Động
đã kêu gọi bỏ học chữ Quốc ngữ để học chữ Tàu trong truyền
đơn “lời kêu gọi” của Trường Chinh, Tổng thư ký nguyên văn
như sau:
“Việt
Nam Dân Chủ Cộng Hoà Độc Lập Tự Do Hạnh Phúc, Năm
thứ VII. Số: 284/ LD.
Hỡi đồng bào thân mến!
Tại sao lại nhận vào trong nước Việt Nam yêu mến
của chúng ta, là một nước biết bao lâu làm chư hầu
cho Trung Quốc, cái thứ chữ kỳ quặc của bọn da
trắng tư bản đem vào. Tại sao ta lại truyền bá trong
dân chúng từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau, cách viết
chữ dị kỳ của tên thực dân Alexandre de Rhondes đã đem
qua xứ mình như thế? Không, đồng bào của ta nên loại
hẳn cách viết theo lối Âu tây ấy – một cách viết rõ
ràng có máu thật đấy – và ta hãy trở về với thứ
chữ của ông bà ta ngày trước, là thứ chữ nho của
trung quốc. Vả chăng, người Trung Quốc, bạn của ta –
mà có lẽ là thầy của chúng ta nữa, ta không hổ
thẹn mà nhìn nhận như thế – Trung Quốc là dân tộc văn
minh trước nhất hoàn cầu, không cần nói gì đến y khoa
của Âu Mỹ chỉ cắt, đục, khoét, nạo... Có thế thôi.
Hỡi đồng bào yêu mến, Chúng ta hãy gạt bỏ cách
chữa bệnh của bọn đế quốc phương tây đem qua xứ sở
ta. Ta hãy bỏ nhà bảo sanh của chúng, bỏ bệnh viện
của chúng, ta hãy dùng thuốc dán của ông cha ta để
lại và nhất là dùng thuốc tàu danh tiếng khắp cả
hoàn cầu. Ta hãy trở về với phương pháp này, trước
nữa để ủng hộ các bạn Trung Quốc, sau nữa để loại
ra khỏi nước Việt Nam yêu mến của ta bao nhiêu những
đồ nhập cảng thực dân như là khoa học, phát minh...
Ta hãy quét sạch lũ ‘trí thức’ đã xuất thân ở các
nước trường Âu Mỹ, đế quốc và thực dân. Chúc ‘Tổng
phản công’ và ‘Thi hành mọi phương pháp bài trừ thực
dân’.
Trường Chinh Tổng Thư Ký Đảng Lao Động...”
Chú Thích: Nhật báo Tiếng
Dội của chủ nhiệm Trần Tấn Quốc tại Sài Gòn, năm
1951, số 462, có bài tựa đề “Việt Minh vận động cho
Việt Nam làm chư hầu trung Quốc” in nguyên văn tờ
truyền đơn của “Uỷ Ban Hành Chính Kháng Chiến”. Sách
“những sự thật cần phải biết” trang 151 của tác giả
Đặng Chí Hùng do Tủ sách Tiếng Quê Hương phát hành.
Thế nhưng, toàn dân không ai hưởng ứng nên cuối cùng nhà
nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa
Việt Nam sau này phải dùng chữ Quốc ngữ cho tới ngày nay mới
đưa ra lối chữ mới phát âm lơ lớ Tàu của Bùi Hiền...
Thưa quý vị,
Chữ Quốc ngữ thời mới hình thành rất là
sơ sài đôi khi ngây ngô nữa chứ không phải súc tích, phong
phú như ngày nay. Tiến trình hoàn chỉnh chữ Quốc ngữ do
chính người Việt là chủ thể của lối chữ này đã sửa đổi, thêm
thắt, tìm kiếm, hoàn thiện từ Đức Chúa Bờ Lời thành Đức Chúa
Trời như trong nguyên bản “Phép giảng tám ngày”
như sau:
“Phép giảng tám ngày cho kẻ muấn chiụ
phép rứa tọi, ma beào đạo thánh Đức Chúa Blời”, mà bây
giờ chúng ta sửa đổi hoàn chỉnh là:
“Phép giảng
tám ngày cho kẻ muốn chịu phép rửa tội, mà theo đạo thánh
Đức Chúa Trời”.
Chính vì vậy chúng ta mới thấy
rằng công phiên âm, ký tự chuyển từ tiếng Việt cổ sang lối
chữ La–tinh là của các nhà truyền giáo nhưng để có một chữ
viết gọi là Quốc Ngữ như ngày nay chính là của toàn dân Việt
Nam chứ không phải là ai khác...
Thưa quý vị,
Trong lịch sử nhân loại không có một dân tộc nào trải qua
những trang sử bi thảm như dân tộc Việt Nam với 26 lần xâm
lược và 9 lần thống trị gần 1000 năm của kẻ thù truyền kiếp
Tàu Hán xưa và đế quốc mới Tàu Cộng bây giờ. Dân tộc Việt
chưa thoát khỏi ách đô hộ của Thực dân Pháp thì tập đoàn
Việt gian Cộng sản đã rước voi Mác Lê về giầy mả Tổ Hùng
Vương, cõng rắn độc Tàu Cộng về cắn gà nhà dân tộc. Kể từ
ngày 1 tháng 9 năm 1858, quân Pháp tấn công Đà nẵng cho tới
ngày 6/6/1884, hiệp ước Patenôtre được ký kết chính thức quy
định Nam Kỳ là thuộc địa của Pháp, Bắc Kỳ và Trung Kỳ chịu
sự bảo hộ của Pháp nhưng mỗi nơi có chế độ cai trị khác
nhau.
Sử sách viết về thời Pháp đô hộ Việt Nam cũng
như theo các nhân chứng sống thì tuy gọi là chế độ thực dân
nhưng người dân vẫn còn đỡ khổ hơn “Người dân làm chủ” trong
chế độ Cộng sản Việt Nam bây giờ. Lịch sử Việt vẫn còn ghi
chép tội ác của thực dân Pháp xử chém 13 anh hùng dân tộc
tại Yên Báy thế nhưng dưới bức màn sắt của Cộng sản, khi
xâm chiếm miền Nam Cộng sản đã giết biết bao nhiêu chiến sĩ
Việt Nam Cộng Hòa và chế độ Cộng sản độc tài đã đưa ra xử
bắn trên 300 tù nhân chính trị tôn giáo trong đó có 2 linh
mục, 2 phụ nữ, độc ác nhất là xử tử hình anh thư Trần Thị
Lan trong lúc chị có thai 8 tháng. Đây không chỉ là tội ác
đối với dân tộc Việt mà còn là tội ác đối với cả nhân loại
nữa.
Đọc lại những lời tuyên truyền tố cáo thực dân
Pháp của Hồ Chí Minh, chúng ta ai cũng giật mình vì đó là
những tội ác mà bạo quyền CS đang gây nợ máu với đồng bào
chúng ta gấp cả trăm lần!!! Chúng ta cũng đau lòng khi viên
Trung úy Calley một người lính ngoại quốc bắn giết dân lành
ở Mỹ Lai, chúng ta cũng có thể thông cảm phần nào khi Việt
cộng núp sau lưng những người dân này bắn giết các binh lính
Hoa Kỳ nên viên Trung úy đã nóng giận ra lệnh xả súng bắn
gây ra những thương vong đáng tiếc. Viên Trung úy này đã bị
truy tố ra tòa án quân sự và nhận lãnh án phạt tù... Thế
nhưng không ai có thể ngờ được rằng Việt gian Cộng sản xâm
lược đã đang tâm tàn sát dã man hàng trăm đồng bào máu mủ
ruột rà ở Ấp Tân Lập, Xuân Lộc tháng 3 năm 1975 mà nhà văn
yêu nước Trần Đức Thạch đã viết lại trong “Hố
Chôn Người ám ảnh...”
Thưa quý vị,
Chúng ta chống lại chủ nghĩa thực
dân nhưng cũng không quên tri ân những người ngoại quốc đã
có công đóng góp bảo lưu nền văn hóa Việt. Thật vậy, nếu
không có nhà bác học bà Madeleine Colani thì cả nhân loại
không ai biết về nền văn hóa Hòa Bình lưu vực sông Hồng ngày
nay được xem là nền văn hóa cổ nhất của nhân loại và từ nền
văn hóa này, chúng ta mới tìm thấy cội nguồn của dân tộc
Việt.
Chính nhà bác học Madeleine Colani của viện
Viễn Đông Bác Cổ đã tìm thấy 2 chiếc đĩa cổ trong đó có 2
chữ Việt Cổ là chữ Sĩ và chữ Thương có niên đại khảo cổ là 8
ngàn năm nghĩa là cổ hơn 6 ngàn năm so với chữ viết “Văn
Giáp Cốt” đời Thương 1766 TDL. Các nhà khảo cổ quốc tế cũng
tìm thấy hơn 20 ký tự chữ viết cổ của nền văn hóa Long Sơn
trong đó có các chữ Việt, chữ Đán... có niên đại khảo cổ
hàng chục ngàn năm giống như chữ Sĩ và chữ Thương vẫn còn sử
dụng trong tiếng Hán hiện đại. Điều này chứng tỏ, Tộc du mục
Thương Chu đã lấy chữ viết Việt cổ gọi là lối chữ vuông thêm
thắt sửa đổi thành chữ Hán gọi là kim văn Hán tự. Sử sách
triều Chu ghi rõ là đời Chu Tuyên Vương sai Thái sử Trứu lấy
lối chữ Điểu triện thời Hoàng Đế sửa đổi biến cải thành lối
chữ gọi là Kim văn tức chữ Hán bây giờ.
Theo các nhà
ngôn ngữ thì Trung Quốc có 10 phương âm, đến thời Tần Thủy
Hoàng diệt Nho đốt sách, bắt các nước đều phải nói và viết
ngôn ngữ Quan Thoại... Ngoài ra, tất cả dân Trung Hoa đều
nói tiếng Việt cổ gồm: Thục ngữ, Yên, Tề ngữ, Đông Di, và
Mạc Địch, Sở ngữ, Mân ngữ, Giang Hoài ngữ, Ngô Việt ngữ,
Điền, Kiềm ngữ, và Việt ngữ ở Quảng Đông, Quảng Tây.
Các công trình nghiên cứu ngôn ngữ cho thấy tiếng nói vùng
Hoa Nam gồm Quảng Đông, Quảng Tây, Phúc Kiến, Triết Giang
đều có âm Việt cổ chung hoàn toàn khác với phương ngữ Hán
phương Bắc mà dân gian Hoa Nam vẫn dùng trong giao tiếp cuộc
sống gọi là tiếng Nôm (Nam), tiếng của người Việt phương
Nam. Tiếng Quan Thoại của giới quan lại thống trị từ thời
Tần là Hán ngữ chính thống (Sino–Tibetan) mà giọng đọc gọi
là Quan Thoại ở vùng Đông Thiểm Tây, Bắc Hà Nam, Nam Hà Bắc,
và Nam Sơn Tây. Tần ngữ là giọng nói ở Thiểm Tây được coi là
giọng cổ Quan Thoại phát âm lơ lớ Quan Thoại, lơ lớ Mông Cổ
còn lại 8 phương âm khác của Di Việt ở khắp Trung Nguyên
gồm:
– Thục ngữ ở Tứ Xuyên của chi Âu Việt.
–
Yên Tề ngữ của chi Lạc Việt (bộ Trĩ) mà họ gọi là Rợ Đông Di
gồm các tỉnh Sơn Đông và một phần Hà Bắc.
– Sở ngữ là
giọng nói ở Hồ Bắc, Hồ Nam của chi Lạc Việt bộ Mã mà Hán tộc
gọi là rợ Kinh man. Vào đầu kỷ nguyên Dương lịch, Yên–Tề–Sở
ngữ giống Việt ngữ, Sở ngữ còn gọi chung là giọng Hồ Quảng.
– Mân ngữ (Hoklo) là giọng nói của chi Mân Việt
(Min–Yueh) ở Phúc Kiến (Lạc bộ Mã).
– Việt ngữ vùng
Quảng Đông và Quảng Tây của chi Âu Việt còn gọi là Tây Âu
của đồng bào Thái (Thái Việt).
– Giang Hoài ngữ là
giọng nói vùng giữa sông Hoài và Sông Dương Tử thuộc nước
Ngô thời chiến quốc ở Bắc Giang Tô và Triết Giang của U–Việt
còn gọi là Đông Việt.
– Điền Kiềm ngữ là giọng nói
vùng Vân Nam và vùng phụ cận của chi Điền Việt.
– Ngô
Việt ngữ.
Tuy gọi là các phương ngữ có chút ít biền
biệt nhưng nói chung vẫn gần giống như Việt ngữ ở vùng lưỡng
Quảng. Ngày nay chữ Quảng Đông vẫn gọi là Việt ngữ, kịch
Quảng Đông và ở châu Kinh vẫn gọi là Việt kịch nên người
Quảng Đông gọi “sí phù” phiên âm
trước đây gọi là Hán Việt không đúng vì đó là tiếng Việt cổ,
Việt ngữ nên chúng ta đọc là “sư phụ”,
“cú nường” chúng ta viết là “cô
nương”...
Tầm nguyên ngữ nghĩa của 2
chữ “Chữ Nôm” thì cả 2 chữ “Chữ” và “Nôm” đều là chữ “Hán
Việt Cổ”, là từ vựng sử dụng trong tiếng Việt có gốc từ
tiếng miền Nam Trung Quốc nên đọc theo âm Việt nên phải gọi
là Việt ngữ là chữ Việt cổ thay danh từ kép Hán Việt mới
chính xác. Chữ Nôm còn gọi là Quốc âm là một hệ chữ ngữ tố
dùng để viết tiếng Việt. Theo Wikipedia tiếng Việt thì 2 chữ
“Chữ” và chữ “Nôm” bắt nguồn trong cách phát âm trong tiếng
Hán thượng cổ mà chúng tôi đã chứng minh là tiếng Việt với
lối chữ vuông, chữ tự 字 nghĩa là chữ và chữ Nôm bắt nguồn từ
cách phát âm trong tiếng Hán trung cổ của chữ “Nam” 南 phương
Nam. Ngôn ngữ phương Nam của Bách Việt gồm 8 phương ngữ mà
dân gian gốc Việt cổ vẫn sử dụng đó là tiếng Nam mà sau này
chúng ta gọi là tiếng Nôm, chữ Nôm. Nhà ngôn ngữ Hashimoto
(1968) và Miyake (2005) đã chứng minh rằng chữ Hán Việt bắt
nguồn từ các phương ngữ miền Nam Trung Quốc.
Nhà
nghiên cứu Phan D John (2010) xác định Hán Việt có gốc từ
phương ngữ Hán Trung cổ là tiếng Mân Phúc Kiến và tiếng Việt
Quảng Đông của tầng lớp vua chúa, quý tộc Đại Việt vì từ thế
kỷ thứ 10, phần lớn các vương triều Đại Việt đều có gốc từ
Mân–Đản (Phúc Kiến) và Quảng Đông...
Ngày nay không
ai phủ nhận được là cổ Hán ngữ có nhiều nét tương đồng
với các phương ngôn Mân Việt, Ngô Việt, và Việt cuả tỉnh
Quảng Đông hay là Việt cuả nước Việt Nam nên những danh từ
kép gọi là Hán Việt trên thực tế là Việt Ngữ, tiếng Việt cổ
của người Trung Quốc gốc Việt ở phương Nam. Thơ văn gọi là
của Trung Quốc từ thời Tống, Đường trở về trước thì phải đọc
theo các phương ngữ Việt thì mới suôn sẻ, dễ hiểu, và
đọc đúng vần được gieo trong thơ! Điều này một lần nữa
chứng tỏ là Tàu Hán xưa đã lấy lối chữ Vuông cổ của người
Việt và lối chữ gọi là “Trung văn” chính là lối chữ Việt
cổ...
Như vậy tiếng Nôm chữ Nôm đã có từ thời xa xưa
nhưng sau gần 1 ngàn năm Tàu Hán thống trị bắt dân ta phải
học chữ Hán, viết chữ Hán dù dân gian vẫn nói tiếng Nam nên
sử sách vẫn phải dùng chữ Nôm để ghi chép tên người, tên
đất, tên sông mà Hán văn không có như Bố Cái Đại Vương, Đại
Cồ Việt.... Mãi đến thời nhà Trần, Hàn Thuyên mới phát triển
thơ Nôm, mở đầu cho thể thơ Hàn Luật viết chữ Nôm. Lúc ban
đầu, chữ Nôm thuần túy mượn nguyên dạng chữ Hán để ghi âm
tiếng Việt cổ (Quốc âm) gọi là chữ “Giả Tá”. Dần dần phép
ghép hai chữ Hán lại với nhau, một phần gợi âm, một phần gợi
ý được dùng ngày càng nhiều và có hệ thống hơn. Phép này gọi
là “Hài Thanh” để cấu tạo chữ mới. Kể từ thời Lê về sau, số
lượng sáng tác bằng chữ Nôm tăng dần trong suốt 500 năm từ
thế kỷ 15 đến thế kỷ 19 với các áng thi văn có tính cách cảm
hứng, tiêu khiển, và nặng phần tình cảm.
Những tác
phẩm Nôm này rất đa dạng: từ Hàn luật (thơ Nôm (tiếng Việt)
theo luật Đường), đến văn tế, truyện thơ lục bát, song thất
lục bát, phú, hát nói, tuồng, chèo. Thi ca chữ Nôm đã diễn
tả đầy đủ mọi tình cảm của dân tộc Việt, khi thì hào hùng,
khi bi ai; khi thì trang nghiêm, khi bỡn cợt. Thế nhưng sử
liệu, nhất là chính sử cùng các văn bản hành chính của triều
đình thì gần như toàn phần đều bằng chữ Hán, ngoại trừ nhà
Hồ (thế kỷ 15) và nhà Tây Sơn (thế kỷ 18) với Hồ Quý Ly và
Hoàng Đế Quang Trung chính thức dùng chữ Nôm trong chính sử
cũng như tất cả văn thư triều chính.
Theo nhà nghiên
cứu Bình Nguyên Lộc dẫn chứng bản đồ “Tối Tân Trung Quốc
Phân Tỉnh Đồ Bản” mới nhất của Trung Quốc thì tất cả các dân
cư bản địa thời cổ ở Hoa Nam ngày xưa đều còn hiện diện trên
lãnh thổ Trung Quốc. Bức bản đồ ngôn ngữ đầy đủ nhất
“Ethnolinguistes groups of Mainland Southeast Asia” do Human
Relations Area Files, Yale University xuất bản cho biết hai
tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, và Quý Châu là địa bàn hiện nay
của dân Thái tức người Âu Việt cổ. Mặt khác Tối tân Trung
Quốc Phân Tỉnh Đồ còn cho biết là không hề có nhóm người Hán
nào gọi là người Quảng Tây mà dân ở mấy tỉnh đó đều là người
Quảng Đông còn gọi là người Việt Đông, là người Việt cổ và
ngôn ngữ của dân Quảng Đông được gọi là Việt ngữ.
Các
triều đại Tàu Hán xưa bắt tất cả những người Trung Quốc
trong đó người gọi là Trung Quốc ở Đông Bắc, người Trung
Quốc ở miền Nam là người gốc Việt cổ bị bắt buộc “Đồng”
giống như nhưng không “Hóa” thành người Trung Quốc vì có
cùng một mã di truyền Genome DNA gồm 4 yếu tố Haotype
a,b,c,d và có đột biến di truyền châu Á như người Việt chúng
ta.
Ngày nay, đế quốc mới Trung Cộng thông qua tập
đoàn tay sai Việt gian Cộng sản cầm đầu là Nguyễn Phú Trọng
đã bắt học sinh từ cấp 1 đến cấp 3 phải học tiếng Tàu Hán là
sinh ngữ chính kể từ niên học tới đây. Đồng thời chúng còn
đưa ra cái gọi là cải cách tiếng Việt viết và phát âm lơ lớ
tiếng Tàu nhằm xóa bỏ lối chữ Quốc ngữ của chúng ta, để
triệt tiêu văn hóa Việt. Đây là âm mưu “Hán hóa” thâm độc
quỷ quyệt của kẻ thù truyền kiếp của dân tộc chúng ta. Chính
vì vậy, hơn bao giờ hết chúng ta phải trân trọng bảo lưu chữ
Quốc ngữ mà các giáo sĩ đã góp phần tạo ra lối chữ Quốc ngữ.
Dù rằng mục đích là để truyền đạo đã tạo ra lối chữ viết
theo a,b,c thế nhưng lối chữ này đã trở nên chữ viết chính
thức của nước ta trong Văn Học Sử nước nhà. Chúng ta phải
trân trọng tri ân các Giáo sĩ F. De Pina, Gaspar d’Amaral,
Antonio Barbosa, và Linh mục Alexandre De Rhodes cùng các
thầy Raphael Quý, các thầy giảng Việt Nam Igesico Văn Tín,
Ben–tô Thiện... và công sức của toàn dân Việt Nam đã hoàn
chỉnh để ngày nay chúng ta có một ngôn ngữ phong phú, sinh
động, một ngôn ngữ “nói như thơ nghe như nhạc” lên bổng
xuống trầm đang được sử dụng rộng rãi khắp nơi trên toàn thế
giới.
Trân trọng kính chào toàn thể quý vị.
Phạm Trần Anh
Tác giả ghi chú:
[1] Jhon De
Francis: Colonialism ang Language in Viet Nam.
LTS:
Tạp Chí Dân Văn mạn phép dùng đoạn văn cuối của bài
viết: “Với truyền thống Uống nước nhớ nguồn, dân tộc ta đời
đời ghi ơn tất cả các giáo sĩ Ki–tô giáo đã góp phần làm ra
thứ chữ viết kỳ diệu ta dùng hơn trăm năm nay.
Và như
vậy có thể nói chữ Quốc ngữ là thành quả kết hợp trí tuệ của
nền văn minh Việt với nền văn minh Ki–tô giáo, là món quà vô
giá mà các giáo sĩ Dòng Tên trao cho dân tộc ta trong một
ngẫu nhiên lịch sử xảy ra ở thế kỷ 17.”
Thưa tác giả
Nguyễn Hải Hoành, từ Hồ Chí Minh cho đến hiện nay là Tô Lâm,
tất cả đảng viên đảng csvn không còn là người Việt Nam,
chúng là bọn người VÔ ƠN.
“ĂN QUẢ NHỚ KẺ TRỒNG CÂY –
UỐNG NƯỚC NHỚ NGUỒN” là truyền thống muôn đời của người VIỆT
NAM KHÔNG CỘNG SẢN.
Bây giờ ở hải ngoại, chúng ta,
người Việt Nam cùng VINH DANH LINH MỤC người Bồ Đào Nha, tên
NGƯỜI, FRANCISCO DE PINA là vị GIÁO SĨ có công nhất đã sáng
tạo ra chữ Việt ngày nay, các vị giáo sĩ khác chỉ làm công
việc bổ khuyết để chữ quốc ngữ được hoàn chỉnh như bây giờ.
Germany, 06/4/2025
– Điều Hợp Viên DĐ Ngôn Ngữ Việt,
– Chủ Nhiệm TCDV.
LÝ TRUNG TÍN
thiên sứ micae – thánh bổn mạng sđnd qlvnch
|
hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
nguồn: internet eMail by lý trung tín chuyển
Đăng ngày Thứ
Hai, April 7, 2025
tkd (thư ký dù). Khoá 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH