Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Nhật ký Hành Quân
Chủ đề: Chiến tranh
Tác giả: Huy Văn
Thứ Hai, 14-05-1974
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Mười
ngày dưỡng quân và nhận thêm tân binh đủ để trung đội lấy lại
phong độ, hay ít ra cũng quên đi phần nào cơn ác mộng vừa trải
qua trong xã Đức Lương, nơi mà chỉ trong một tháng dò mìn bằng
chân, tôi mất đi đúng 15 đồng đội gồm 6 người hy sinh và 9 bị
thương với hai lần bổ sung quân số. Lần này Đại úy Vương ưu tiên
tăng cường cho Trung đội 1 chúng tôi nên nhân sự nhích lên được
25 người, trong số này có Trung sĩ nhứt Nguyễn Văn Cho, thuyên
chuyển từ Đại đội 4 qua làm Trung đội phó cho tôi. Những ngày giữ
an ninh quốc lộ, tuần hành, hoặc kích đêm của chúng tôi trong khu
vực quanh làng Tú Sơn của xã Thạch Trụ chấm dứt khi có lệnh theo
tiểu đoàn di chuyển về phía Chi Khu Mộ Đức để thay thế cho Tiểu
đoàn 39 BĐQ.
Nơi đóng quân của trung đội chúng tôi có thể
so sánh với một ốc đảo giữa sa mạc với những cây xanh và hàng dậu
che chắn khoảng đất khá rộng có hình lưỡi liềm, một đầu nối vào
con đường liên tỉnh còn đầu kia nhìn bao quát toàn cảnh của núi
Cối về hướng Nam. Vùng đất chung quanh vị trí là mớ ruộng khô
chạy một vòng theo hướng Đông Nam-Tây Bắc, khoanh vòng từ đồi
phòng thủ của ban chỉ huy đại đội đến bên kia đường xe lửa xuyên
Việt. Gọi là ốc đảo vì chỉ nơi chúng tôi đóng quân là có cây, bụi
rậm rạp vốn là khu vườn của một ngôi nhà đã đổ nát từ lâu, còn
bốn bề bao quanh là ruộng khô -xám xịt màu đất hay màu cỏ tranh
héo úa- chạy mút tầm mắt theo mọi hướng, nhứt là về phía bắc, nơi
có làng Phước An bé nhỏ và về hướng núi phía tây, nơi có những
rặng cây xanh rậm. Nhìn từ xa, vòm xanh tươi mát này trông rất
giống tre làng mặc dù trên bản đồ thì ghi chú là xóm thôn ở hướng
đó đã bỏ hoang. “Ốc đảo” trở thành tiền đồn của đại đội chúng tôi
và cũng là của Chi Khu vì bên kia đường rầy là vùng địch, còn
làng Phước An ở phía nam, dưới chân núi Cối, là nơi đã bỏ hoang
từ lâu dù chỉ cách Quận đường chừng 2km đường chim bay. Khoảng
200 mét về phía bắc có một chốt của Đại đội 2. Cũng khoảng cách
đó về phía đông, tức sau lưng chúng tôi, là dãy đồi thấp, nơi
trung đội súng nặng và ban chỉ huy đại đội cùng hai trung đội tác
chiến còn lại khoanh tuyến trên cao độ chừng 40 mét, vốn là phần
nối tiếp của núi Cối khi dãy Trường Sơn cố chạy dồn về hướng
biển. Trung đội 2 của Lê Văn Hữu án ngữ mặt sau của đại đội và
giữ an ninh cho tỉnh lộ. Trung đội 3 của “Ti Vi” Nguyễn Thanh Vân
nằm trên sườn cao bên trái đại đội. Nơi đây là chốt kiểm soát con
đường đi hái chà-là của dân địa phương và cũng là nơi khởi đầu
của một rừng sim vừa mới đơm hoa chạy biến vào triền núi. Nghe
bạn kể trên máy về cảnh trí quanh khu vực đóng quân của Trung đội
3 mà tôi thèm được ở trên đó ngắm cảnh thay vì nằm dưới đây chỉ
toàn ruộng hoang và cỏ tranh héo úa.
Lấp bớt hố, sửa sang
lại tuyến phòng thủ xong là vừa vặn hết một ngày. Đã quen với
hoạt cảnh vui mắt khi đóng quân ngoài quốc lộ nên Lính có vẻ buồn
vì sự tĩnh mịch của nơi đồng không mông quạnh. Tiếng động của
người và vật trên con đường đê -nói cho đúng hơn, là tỉnh lộ của
thuở xa xưa- đã vắng lặng từ khi nào không biết. Tỉnh lộ 578 -một
thời thênh thang chạy từ quốc lộ 1 ngang qua Chi Khu kiêm quận
đường Mộ Đức, vượt con đường xe lửa xuyên Việt rồi mất hút vào
thung lũng giữa vùng núi Cối và núi Nhàn ở phía tây- nay đã là
một con đường đất vàng võ. Vì đang là mùa khô, nên chỉ cần một
cơn gió thoảng nhẹ cũng đủ tốc lên lớp bụi mỏng chập chờn, ẻo lả,
hòa tan vào màn trời phơn phớt nắng. Khung cảnh thật lặng trầm
trong màu chiều dần buông. Trời đang tắt nắng. Con đường trở
thành một vệt mờ chạy vào quầng tối của làng mạc và vùng núi phía
tây. Nhìn lại hướng quận lỵ thì đã thấy le lói vài ánh điện. Đêm
đang dần đến. Một ngày sắp trôi qua. Mong sẽ là một đêm an bình
và thêm một ngày mai ngập ánh hồng.
Thứ năm,
17-05-1974
Công việc sửa sang hầm hố và củng cố
hệ thống phòng thủ coi như đã xong. Chỉ có công việc phát quang
để nới rộng tầm quan sát và xạ trường là chưa được hoàn hảo nên
chiều nay cả trung đội ra sức dọn cỏ rồi nhằm lúc có gió thổi khá
mạnh, chúng tôi châm lửa đốt để mượn sức gió quét một vòng quanh
tuyến đóng quân. Khi khói tan, lửa tàn, mới lòi ra một ngôi mộ
hoang, nằm cách vị trí của chúng tôi chừng 30 mét ở phía đông và
một con suối cạn ở phía tây cũng cách một quãng tương tự. Xem lại
bản đồ thì thấy một lằn chỉ xanh chạy theo hướng nam bắc, phát
xuất gần đỉnh cao 700 mét của núi Cối, thẳng xuống đồng bằng, cắt
ngang tỉnh lộ, nhưng có lẽ vì bị khô hạn đã lâu nên con suối bây
giờ trở thành một loại giao thông hào thiên nhiên không hơn không
kém. Tôi đảo một vòng chung quanh tuyến, xem xét kỹ lưỡng vị trí
của ngôi mộ và địa thế của con suối rồi ngay sau đó kéo Hạ sĩ
Qúy- vua gài lựu đạn kiêm thiện xạ M79 của cả đại đội- đi theo để
chỉ cho anh chàng gài “đồ chơi” tại hai nơi đó và những chỗ khả
nghi khác. Nhưng Qúy “mát” chưa kịp gom mớ “măng cụt” M67 thì đã
nghe hiệu thính viên báo cáo là Vương Vũ ra lệnh cho trung đội
xuống hố để ông cho mấy tràng đại liên và vài viên cối để xác
định hỏa tập tiên liệu và cận phòng.
-Ê Hoa Đăng! Có thấy
“con gà cồ” gáy đẹp không?
Đại úy Vương hỏi tôi trong
tiếng nổ dòn của M60 từ trên đồi vọng xuống. Đạn cày đất tung tóe
quanh chốt của Trung sĩ nhứt Cho. Sau đó, vài viên súng cối vòng
qua đầu chúng tôi và nổ ngay khu vực giữa suối cạn và đường rầy,
là hướng phòng thủ của tổ đại liên do Trung sĩ Đặng Tri đảm
nhiệm.
-Cắm tiêu cho “Con gà cồ” và cái “Điếu Cày” được
chưa? Đám “vịt con” lạng quạng về đây là ông vặt lông cả lũ. Nhắm
mắt cũng không trật đâu cả. Ưu tiên cho Trung đội 1 đó nghe!
Vương Vũ khề khà trên máy, giọng nói có vẻ khoan khoái lắm.
“Bố Già” đang lai rai với hai “quan nhí” và Thiếu úy Lợi, Đại đội
phó là cái chắc. Từ trên cao nhìn quanh một vòng xuống ruộng và
các xóm làng xa xa thì dù là một tâm hồn chai đá cũng không thể
không sinh tình huống chi Vương Vũ vốn lãng mạn mặc dù dáng vẻ bề
ngoài thật lạnh lùng và cứng rắn. Vả lại, hoàng hôn đang tắt
nắng, ráng chiều soi bóng núi ngã dài, đưa bóng cây nhòa vào đất
xám tạo nên một bức họa đồng quê bình dị và thơ mộng. Thêm vào đó
là sự yên lắng gần như hoàn toàn sau một ngày sinh hoạt đủ làm
rung động tâm hồn mọi người.
-Bố Vương đang đưa cay với
tụi này. Thấy ông tới giờ cơm rồi mà vẫn còn lo “dọn dẹp nhà cửa”
nên khen ông cẩn thận và chịu khó rồi hứng lên “đốt pháo” cho xôm
tụ. Vậy là ông được cưng lắm đó!
Nguyễn Thanh Vân gọi máy
kể chuyện sau khi mọi thứ đã yên lắng. Anh bạn “Ti Vi” và Lê Văn
Hữu, Trung đội trưởng Trung đội 2, là hũ chìm, hai chàng gặp nhau
là đưa cay. Nhưng tôi thân với Vân hơn vì anh bạn gốc Hòa Hảo này
cười nhiều hơn nói và nhứt là cùng một “gu” văn nghệ, còn Hữu thì
bặm trợn, nóng nảy và hiếm khi biểu lộ tình cảm dù lòng dạ rất
tốt. Anh bạn gốc Huế có một tương lai đầy hứa hẹn trên đường binh
nghiệp, đánh đấm và chỉ huy rất “ngọt” với một bàn tay bọc nhung
và tay kia bọc thép mà Vương Vũ thường hay nêu thí dụ với chúng
tôi. Mặc dù bề ngoài trông rất “ngầu hầm”, nhưng Hữu lấy danh
hiệu truyền tin thật... hiền khô: Hương Giang! Chiều nay, “Bố
Già” Trần Văn Vương hứng tình kéo họ qua cụng ly, và cũng không
quên thảy cho tôi chút “lửa” để ấm lòng cùng con cái qua đêm.
THỨ SÁU, 18-05-1974
Tiếng nổ của lựu
đạn rồi tiếng M79 lẫn M60 làm cả trung đội bung người lao mình
xuống hố. Bóng tối còn đang bao trùm cảnh vật. Nhìn lại đồng hồ
thì chỉ mới 5 giờ sáng. Tôi băng mình về phía vọng canh của tổ
đại liên. Qúy “mát” tống thêm hai trái đạn M79 về phía suối cạn
rồi tựa lưng vào góc tường đổ nát của ngôi nhà. Đưa tay chỉ về
hướng đường xe lửa, Qúy “mát” nói nhỏ với tôi:
-Em nghi là
tụi nó rình mình nên chơi luôn một dây cho chắc ăn. Thế nào cũng
có đứa dính chấu đó chuẩn úy!
Tạt qua hố của Hạ sĩ Trần
Dần, xạ thủ đại liên thì Trần Dần cho biết ngay sau khi thay ca
lúc 4 giờ sáng là tỉnh luôn không ngủ lại được nên khi nghe lựu
đạn, rồi M79 phát nổ là anh chàng chộp súng bắn ngay vào những
nơi đã được cắm tiêu làm dấu cho hỏa lực tiên liệu. Tôi gật đầu,
đảo mắt quanh một vòng tuyến chỉ có 7 người của tổ đại liên rồi
cùng hiệu thính viên lạng nhanh ra vị trí của toán khinh binh,
rải dài bên kia “ốc đảo”. Trung sĩ Cho và 10 tay súng cũng đã
xuống hố, sẵn sàng chờ địch. Tôi kiểm tra một lần nữa vị trí
phòng thủ của cả trung đội, đích thân báo cáo tình hình vừa qua
với Vương Vũ rồi mới yên tâm trở về chỗ của mình. Sự yên lắng của
đêm về sáng làm tôi bán tín bán nghi vì đây không phải là lần đầu
mọi người bị mất ngủ khi có báo động giữa đêm. Nhưng lần này là
thú hoang hay là địch?
Mấy tiếng nổ vang rền trên đồi,
không phân biệt được là lựu đạn hay bê-ta, sau đó là tiếng AK và
M16 đan vào nhau đã trả lời câu hỏi của tôi. Năm giờ rưỡi sáng!
Địch đột kích rạng đông. Ngọn đồi trọc bên cạnh Chi Khu, nơi đặt
2 khẩu đại bác 105ly, đang bị pháo tới tấp. Trong khi đó, phòng
không 12.8ly và có lẽ là 57ly không giựt từ trên sườn núi Cối
trực xạ dữ dội vào vị trí của đại đội và của Trung đội 3. Gần như
tiếp ngay sau đó là phía Đại đội 2 của Trung úy Hiền ở hướng bắc
cũng có chạm súng. Như vậy Đại úy Vương phải tự lo lấy thân vì
ngay cả pháo binh từ căn cứ Lee, đặt tại phía nam Thạch Trụ cũng
chưa thấy rục rịch. Tôi cảm thấy lo lắng khi nhìn lại vị trí của
mình. Bây giờ mới thấy “ốc đảo” quả là quá rộng. Vì hướng địch dự
trù là ở phía tây, nên dù khoanh vòng theo chu vi để lập tuyến
phòng thủ thì hỏa lực chính, với cây đại liên M60, cũng tập trung
nhiều hơn cho phía suối cạn và đường rầy. Còn nhìn về phía sau,
tức hướng đông, thì hố hầm thưa thớt. Chỉ có Hạ sĩ Qúy tức Qúy
“mát” và Trần Minh Sơn cắm chốt để canh phòng hướng có ngôi mộ
hoang, cũng là hướng nhìn về phía đại đội. Người khinh binh gần
nhứt cũng phải cách khoảng gần 10 mét.
6H00.
Trời đang nhá nhem sáng. Địch dồn sức tấn công Đại úy Vương với
những loạt AK và thủ pháo cùng đạn cối và súng cộng đồng với một
nhịp độ dồn dập như từ lúc khởi đầu. Ban chỉ huy đại đội và Trung
đội 3 của “Ti Vi” chống trả mãnh liệt. Vẫn chưa có hỏa lực yểm
trợ của pháo binh diện địa từ căn cứ Lee ở hướng nam của xã Thạch
Trụ. Trong khi đó, Chi Khu Mộ Đức vẫn đang bị pháo kích liên tục.
Chúng tôi còn chờ địch và đang theo dõi bằng mắt cũng như trên
tần số liên lạc. Nhưng đột nhiên “Ti Vi” Nguyễn Thanh Vân im lặng
vô tuyến. Hiệu Thính Viên của đại đội rồi chính Đại úy Vương liên
tục lên máy gọi mà không nghe hồi đáp. Cũng ngay lúc này, địch
chuyển hướng tác xạ. Từ trên núi Cối, đại bác không giựt, phòng
không, cùng trung liên nồi (RPD) đồng loạt bắn thẳng vào tuyến
của chúng tôi. Sau đó, địch từ trên triền núi dàn hàng ngang tràn
xuống, chạy ngời ngời trên ruộng khô, nhắm vào vị trí có hầm hố
của toán khinh binh. Địch đang bọc hậu cả trung đội! Thanh “máy”
gọi đại đội, báo cáo một cách khẩn thiết. Không có hỏa lực tiếp
ứng từ trên đồi trong khi rõ ràng là địch đang xua quân chạy giữa
hai lằn đạn vì góc độ xuất phát của chúng nằm ngay vào góc chết
của hai lằn đạn bắn chéo vào nhau. Nếu chúng tôi và đại đội cùng
khai hỏa một lượt thì sẽ diệt gọn đám “vịt con” như chơi, nhưng
trận đánh trên kia đang diễn ra một cách kịch liệt với tiếng súng
nổ thật dòn dã và liên tục cho biết là Vương Vũ đang bận điều
động Lê Văn Hữu tiếp viện cho Trung đội 3, hay chính là trung đội
súng nặng của đại đội cùng với nhóm trừ bị gom từ các trung đội
cũng còn đang chống trả không chừng. Địch tấn công từ sau lưng
chúng tôi cũng có nghĩa chúng đã chắc ăn là đại đội sẽ không có
khả năng “chăm sóc” đám thiêu thân đang thâu ngắn con đường băng
qua khoảng ruộng dài không quá 200 thước. Tôi hoang mang không
hiểu mình bị bao vây hay địch chỉ xuất hiện từ hướng núi nên dạt
ngay qua hố của Trung sĩ Đặng Tri rồi nhoài người nhìn qua phía
đường rầy tức hướng chính Tây. Khi không thấy động tịnh gì, tôi
quay lại bên Trần Dần, ra lịnh cho người xạ thủ đại liên ôm súng
tức tốc qua đổi hố cho Trần Minh Sơn. Hồ Viết Sành vai đeo súng,
tay sách đạn phóng theo bạn, còn thằng em Sài Gòn từ tuyến bên
kia cũng bật dậy chạy qua trám chỗ của Trần Dần như cái máy. Hố
của Sơn là hố đơn nên thằng em ô-đô của tôi phải nằm nghiêng trên
mặt đất để sẵn sàng tiếp đạn. Trong tiếng nổ dòn của súng địch,
tôi hét ra lịnh mọi người không được nổ súng trước khi Trần Dần
khai hỏa. Có tiếng đáp: “Nhận rõ!” của Trung sĩ Cho từ bên kia
đầu tuyến. Và ngay sau đó là câu:
-Tụi mày muốn thí quân
thì ông sẵn sàng phổ độ!
Hình như là tiếng nói chắc nịch
của Trần Dần thì phải?
Ngoài kia địch đang hiện rõ dáng
người. Khi khoảng cách chỉ còn trên dưới 50 mét thì tôi ra lệnh
cho đại liên khai hỏa. Tiếng đạn của đôi bên nổ dòn hơn pháo.
Địch khựng lại và khom mình lẫn vào lớp tranh khô. Trong ánh sáng
lờ mờ của hừng đông, chỉ còn thấy nón cối nhấp nhô theo nhịp chân
di chuyển. Tôi thầm tiếc rẻ là đã không đưa Qúy “mát” qua hướng
này để thằng em thiện xạ bắn M79 cho đã tay, ngược lại phải giữ
hắn ở phía bên kia, để cân bằng hỏa lực và đề phòng bị bao vây.
Nhưng niềm lạc quan của tôi tắt ngúm khi đạn cối của địch bắt đầu
rớt ngay trong tuyến. Và cũng ngay lúc đó thì một loạt B40 kèm
theo SKZ 57ly xẹt lửa vào nơi phòng thủ của Trung sĩ Cho. ĐM! Tôi
chưởi thầm. Mệt tới nơi rồi. Mình chỉ có 20 mạng. Tụi nó chắc
chắn phải một đại đội! Chưa kịp hét lính nhô đầu lên bắn tiếp thì
đã thấy bóng người từ phía bên kia tuyến rầm rập chạy qua. Tôi
giựt mình khi thấy Trung sĩ nhứt Cho dẫn đầu vài người chạy thẳng
vào chỗ tôi.
-Tụi nó bắn rát quá ngóc đầu không nổi. Đã có
đứa bị thương.
Anh ta vừa thở vừa nói, rồi phóng luôn ra
tỉnh lộ. Tôi điếng hồn hét anh ta quay lại nhưng ngay lúc đó toàn
bộ khinh binh cũng rút theo. Tôi vừa tức giận vừa lo sợ nhưng chỉ
biết ra lệnh cho cả đám lao xuống ruộng phía bên kia đường, lập
tuyến mới để chống trả. Đến lúc này thì địch dồn hỏa lực triệt
khẩu M60 của Trần Dần, và mặc dù tôi hét Trung sĩ Đặng Tri lôi
Qúy “mát” và hai thằng em tổ đại liên quay ra tuyến sau để cầm cự
và giúp toán khinh binh chỉnh đốn hàng ngũ thì tình hình vẫn tệ
hại như trước. Thay vì đứng dưới ruộng, dùng mặt lộ thay hố cá
nhân để cự địch thì toán của Trung sĩ I Cho kẹp theo con đường
chạy luôn về phía quốc lộ 1! May cho họ là Đại đội 2, không biết
vì đang đụng địch, hay vì quan sát được tình hình của chúng tôi
nên không thấy nổ súng về phía này. Tôi thật sự bối rối và không
biết phải xử trí ra sao thì địch đã bắt đầu “Xung Phong!”... vào
chỗ không người, nơi hơn một nửa trung đội vừa bỏ tuyến. Bắn lính
để giữ chân họ thì tôi không nỡ. Đạn dành cho địch, không phải
cho người mình, nên tôi phân vân chưa biết làm sao thì bỗng nhiên
Trần Dần tốc hố, ôm súng phóng lên đường lộ rồi nhoài người qua
phía bên kia ruộng. Hồ Viết Sành cong người chạy ngay sau lưng.
Ngay sau đó, nhóm của Trung sĩ Đặng Tri cũng rút theo bén gót.
-Vọt đi Chuẩn úy!
Thanh “máy” vừa hối tôi, vừa thảy
chiếc PRC lên miệng hố. Dứt lời là thằng em đã vững chân trên mặt
đất rồi khom người phóng ngay qua bên kia đường. Mọi chuyện xảy
ra thật nhanh, không kịp cho tôi định thần để nhận định tình thế.
Tôi nhìn vào khoảng tranh tối tranh sáng của bên kia khu vườn,
trong lòng bối rối và hồi hộp. Lính bỏ tôi, nhưng tôi phải làm
sao bây giờ? Bằng một hành động vô thức, tôi vừa chống tay nâng
mình lên miệng hố thì cũng vừa lúc đó có người níu vai áo kéo tôi
lên thật nhanh. Là Trần Minh Sơn! Thằng em Sài Gòn là người sau
cùng bỏ tuyến và khi chạy ngang đã dừng lại lôi giúp tôi lên.
Nhưng vô tình Sơn “chẩu” làm khổ tôi vì khẩu Colt 45 trên tay tôi
bị hắn đá văng đâu mất. Tôi rụng rời sờ soạng, tìm kiếm trong lời
khấn thầm xen lẫn tiếng chưởi thề bất chợt. Đồng thời câu nói
“... Thà mất mạng còn hơn mất súng, mất máy...” của Đại úy Vương
vang vọng đâu đó trong đầu càng làm tôi thêm bấn loạn. Trong
khoảnh khắc, tôi mới hiểu thế nào là sự sợ hãi trong cô đơn cùng
cực. Đại đội bị tấn công, không có khả năng tiếp trợ ngay lập tức
cho chúng tôi. Lính rút lui khi chưa có lệnh. Địch chỉ còn chừng
vài chục thước là tóm cổ hay làm thịt mình như chơi. May cho tôi
là chỉ trong giây lát tôi chộp được khẩu súng trong nỗi mừng vô
hạn, và cùng lúc đó là nhịp súng nổ dòn của Sơn “chẩu” và Trần
Dần, rồi tiếp theo là mấy trái M79 trực xạ của Qúy “mát” đã cầm
chân địch để tôi kịp lao người phóng xuống ruộng, bên kia tỉnh
lộ.
Chỉ sau vài tràng đạn là mấy thằng em còn chung thủy
với tôi cũng vọt theo toán người đang lom khom chạy phía trước,
dẫn đầu là toán của Trung sĩ Cho. Tôi chưởi thề và quát tháo liền
miệng nhưng rồi không còn cách nào khác ngoài việc lao người theo
họ. Chạy được một đoạn thì Trần Dần vấp chân té nhào, khẩu M60
văng khỏi tay. Hồ Viết Sành dù người còn mang dây đạn đại liên và
tay ôm khẩu M16, cũng ráng dừng lại kéo bạn đứng dậy. Thấy cả hai
vướng víu vì súng đạn và nhứt là khi thấy Trần Dần đang khập
khiễng thì tôi chộp lấy khẩu súng của thằng em ô-đô. Cũng ngay
lúc đó, tôi chợt nhận ra chiếc PRC25 nằm chình ình trên mặt đất.
ĐM! Thằng Thanh bỏ máy rồi! Tôi điên tiết chửi thề. Thật là quá
đáng! Vừa nhủ thầm, tôi vừa nổi khùng quạt hết băng đạn M16 ngay
trên đầu đám lính đang chạy phía trước.
-ĐM! Đứng lại!
Tôi vừa hét vừa thay một gắp đạn mới, sửa soạn lia thêm một
tràng nữa thì cùng lúc đó, tiếng của Thượng sĩ Lê Văn Trữ thảng
thốt vang lên từ máy truyền tin.
-Hoa Đăng! Đây Trinh Nữ.
Thằng Một đang ra biển phải không? Nghe rõ trả lời!
Thay
vì đáp máy, tôi chĩa súng lên trời làm bốn phát để nhận bạn mà
chỉ có tôi và người cựu Trung đội phó chế ra theo nhịp ba ngắn,
một dài thay vì ba phát đều đặn như mọi người thường làm. Ngay
lập tức, có bốn phát từ trên tuyến của đại đội hồi đáp và kèm
theo đó là mấy tràng đạn cắm xuống ruộng chận đứng hẳn bước chân
của đám khinh binh còn cố đi lần ra phía quốc lộ. Bỏ hai thằng em
ở tại chỗ, giao cho Trần Minh Sơn tạm thời liên lạc máy và báo
cáo cho đại đội, tôi băng người về phía nhóm lính đang xớ rớ
trong thửa ruộng. Cùng lúc đó, từ trên đồi cũng có một số người
đổ dốc chạy nhanh xuống. Trong ánh sáng hừng đông, hình ảnh của
người Thượng sĩ Thường Vụ đại đội và mấy thằng em đang gấp rút
“hạ san” trông thật oai hùng và tràn đầy khí thế làm sao!
Việc đầu tiên khi gặp lại thuộc cấp là tôi hét Thanh “máy” trở
lại phía Sơn “chẩu”. Cả đám lính biết thân, biết phận cúi đầu nín
khe. Tôi khoát tay khi Trung sĩ I Cho đến gần định phân bua gì
đó. Tôi vừa cho lịnh kiểm tra nhân sự và súng đạn thì Thượng sĩ
Trữ cũng vừa xuống tới nơi. Ngay lập tức, Trữ bắt tay chỉnh đốn
lại hàng ngũ để tôi lên máy liên lạc thẳng với Vương Vũ. Đại úy
Vương vắn tắt cho biết tình hình thằng 3 của Nguyễn Thanh Vân đã
khả quan. Thiếu úy Lợi đang lo trên đó để Vương Vũ rảnh tay theo
dõi tình hình của tôi dưới này. Ông ra lịnh cho chúng tôi bằng
mọi giá phải trở lại tuyến cũ và bắt đầu phản công ngay lập tức.
Mặc dù hỏa lực không còn đầy đủ, mỗi người chỉ vài gắp đạn, nhứt
là đại liên chỉ có hai dây mà Hồ Viết Sành lạch bạch đeo trên
người, nhưng trung đội như lấy lại sinh khí mới khi cả 5 khinh
binh thiện chiến đều theo người chiến sĩ xuất sắc của trận Sa
Huỳnh trở lại trung đội để cùng lâm trận. Đây là 5 tay súng kỳ
cựu của trung đội được cắt giao cho đại đội, một hình thức tăng
cường nhân sự phòng thủ của Đại úy Vương và cũng là lực lượng trừ
bị gồm toàn những tay thiện chiến để sử dụng khi cần. Vương Vũ
trả người, lại kèm thêm Lê Văn Trữ để giúp tôi, đủ nói lên quyết
tâm xoay ngược tình thế của ông. Một lần nữa, người Thượng sĩ
thường vụ tạm thời nhận trách nhiệm Trung đội phó cho tôi như đã
làm bốn tháng trước đó. Tất cả mọi người còn lại đều trở thành
khinh binh. Tất cả! Ngoại trừ Thanh “máy”.
7H00.
Nửa tiếng trước đây chúng tôi bị địch tấn công. Bây giờ tình thế
đổi ngược vai trò, và mặc dù không có tăng viện, thậm chí mất
tích một đứa em khinh binh không biết số phận ra sao, hỏa lực lại
không đầy đủ, trung đội vẫn quay trở lại để tái chiếm vị trí vừa
bị địch tràn ngập. Pháo binh từ căn cứ Lee bắt đầu tác xạ dòn dã.
Đại úy Vương cho dập thẳng vào phòng tuyến bây giờ là của địch.
Mức độ dồn dập rồi lơi dần khi khoảng cách của chúng tôi càng lúc
càng gần vị trí cũ. Trên dưới không đầy nửa giờ đồng hồ mà con
mồi đã nhanh chóng trở thành thợ săn. Thêm vào đó là tinh thần
“đoái công chuộc tội” đã làm cho cả trung đội hăng hái hơn bao
giờ hết. Chúng tôi chia hai cánh tiến quân theo hình góc 90 độ.
Tôi dẫn khinh binh băng qua bên kia đường, bung hàng ngang trực
diện “ốc đảo” còn Thượng sĩ Trữ dẫn Trung sĩ Đặng Tri và tổ đại
liên theo hàng dọc cặp sát lộ để từng bước tiến về tuyến của Đặng
Tri trước đây. Lúc toán chúng tôi đang di chuyển gần đến ngôi mộ
hoang thì có một cánh tay vươn khỏi tầm cỏ tranh sát đường lộ,
kèm theo một giọng nói quen thuộc:
-Thạch đây! Thạch đây!
Đừng bắn.
Thằng em khinh binh mừng rơi nước mắt khi thấy
đồng đội quay trở lại. Vết thương trên đùi trái đủ nặng để Thạch
nằm lại rồi ẩn mình cách tuyến của trung đội chỉ vài chục thước.
Cỏ tranh ngang bụng và ánh sáng nhá nhem của rạng đông đã che cho
Thạch khỏi bị địch phát giác. Nhưng ngôi mộ hoang cũng đã kết
liễu sinh mạng của hai thầy trò một C trưởng bộ đội khi họ bám
vào đó để quan sát trước khi tràn vào phòng tuyến vốn đã bỏ không
của chúng tôi. Quả lựu đạn gài vào phút chót của Qúy “mát” đã
hoàn thành tâm niệm “sinh bắc, tử nam” cho hai chiến binh cộng
sản. Chiến lợi phẩm đầu tiên lại là một máy truyền tin PRC25 và
một mớ tài liệu cá nhân. Không thấy súng cá nhân của gã Đại đội
trưởng. Có thể một tên bộ đội nào đó đã quơ nhanh trước khi tràn
ngập tuyến của chúng tôi không chừng. Biết địch đã như rắn mất
đầu, tôi ra lịnh xung phong vào nơi có hầm hố của trung đội trước
đây. Trong khi say khói súng và giữa những tiếng nổ dòn tan, tôi
quên mất mình là kẻ vừa tháo chạy trước đó không lâu!
Chúng tôi vừa bắn vùa phóng nhanh về phía trước. Địch chống trả
một cách yếu ớt không ngờ. Chỉ sau một hồi cầm cự là đám nón cối
bỏ hố rút chạy về hướng suối cạn để vượt qua đường rầy. Thượng sĩ
Trữ không bỏ lỡ dịp may, dẫn lính truy kích ngay lập tức. Không
có gì đau khổ cho bằng bị nhắm bắn mà cũng không có gì khoái trá
hơn khi rượt đuổi một kẻ đã thất thế. Khi nãy tôi thất thần bỏ
tuyến. Bây giờ thì đứng thẳng lưng nhắm từng người, từng tấm bia
sống mà bắn. Cái thú tánh đó chỉ lắng xuống khi tôi bất chợt nhận
ra mình đang nhắm vào một bộ đồ dân sự đang đứng lên, té xuống,
khi cố gắng lách chạy giữa đồng trống. Trong khoảnh khắc, tôi
chợt nhớ người thiếu niên học sinh trong xã Đức Lương mới mấy
tuần trước đây. Màu đồng phục quen thuộc với áo trắng, quần xanh
đã khiến tôi hạ khẩu M16 xuống trước khi tìm mấy màu áo ka-ki Nam
Định để đưa lên đỉnh đầu ruồi. Bắn kẻ có mang vũ khí. Không bắn
dân, dù là dân trong vùng địch!
Chúng tôi rựơt đuổi đến
đường rầy xe lửa thì dừng lại theo lệnh của Đại úy Vương. Trận
chiến coi như đã kết thúc. Tiếng súng lớn, nhỏ im bặt sau đúng 4
tiếng khuấy động của chiến trận trong một ngày nắng tuyệt đẹp.
Cuộc lục soát và thu nhặt chiến lợi phẩm, cũng như gom xác địch
quân được thực hiện nhanh chóng. Trung đội hạ được tổng cộng 6
tên cán binh cộng sản, tịch thu 3 AK, 1 súng B40, một máy PRC25,
một số đạn dược, lương khô và vật dụng cá nhân, cùng một xấp tài
liệu trong đó có quyển sổ tay và giấy tờ liên quan đến gốc gác và
đơn vị của gã C Trưởng bộ đội. Bù lại, tổn thất của chúng tôi hầu
như không đáng kể: chỉ có 3 người bị thương là Thạch, Trần Văn
Phùng và Trung sĩ Đặng Tri.
10H00. Trong
khi mọi người tu bổ lại công sự chiến đấu, tôi ngồi thừ người suy
nghĩ về những gì vừa xảy ra cho bản thân mình và cả trung đội. Rõ
ràng là tôi gặp may mắn, rất may mắn! Nhìn lại chung quanh tuyến,
và nhứt là khi gom xác của hai tên đặc công cùng với việc xem xét
những vết máu rải dài từ suối cạn về đến tận đường xe lửa, tôi
rùng mình khi tưởng tượng cảnh bị đặc công phá tuyến từ phía
trước rồi bộ đội chánh quy tấn công từ phía sau. Chắc chắn là
toán đặc công của địch đã điều nghiên vị trí của chúng tôi từ
nhiều [ngày]
trước, nhưng không ngờ vào phút cuối lại vướng tay sát thủ Qúy
“mát”. Theo suy đoán của tôi thì hai trái lựu đạn của Qúy “mát”,
kèm theo mấy tràng M60 của Trần Dần đã bẻ gãy dự tính ban đầu của
địch, do đó toán đặc công đã phải kéo đồng bọn, chết cũng như bị
thương, rút lui lập tức. Có lẽ đám du kích và đặc công đã sợ
chúng tôi xin pháo sáng để truy kích nên bỏ luôn kế hoạch phối
hợp tác chiến của chúng với lực lượng chính quy không chừng. Đồng
thời, sự im lặng hoàn toàn sau khi lựu đạn nổ có thể đã tạo cho
cánh quân trên núi Cối lầm tưởng là toán đặc công vẫn an toàn và
chúng tôi chỉ bắn hú họa rồi thôi. Cũng có nghĩa là địch thiếu
phương tiện liên lạc cho dù đã sử dụng PRC25 lấy được của quân ta
trong một trận nào đó, có thể là trận Ba Tơ, vì trên cây viết máy
lấy được trong túi áo của tên C Trưởng có khắc hàng chữ: “K8. Đơn
vị giải phóng Ba Tơ”. Xui cho hai thầy trò của họ! Định mệnh đã
khiến cho chúng tôi khám phá ra ngôi mộ hoang để Qúy “mát” gài
quả lựu đạn tại đó vào giây phút cuối. Định mệnh cũng khiến họ
chui vào chỗ chết mà tưởng là nép mình vào nơi an toàn để dễ điều
quân. Ba trái lựu đạn, 4 xác địch ngay lúc khởi đầu cuộc giao
tranh là thành tích cá nhân của anh chàng lúc nào cũng nhe răng
cười! Có thể thương vong còn cao hơn nhiều, căn cứ vào vết máu
vung vãi trên mặt đất quanh suối cạn và kéo dài đến tận đường xe
lửa. Công đầu phải thuộc về vua gài lựu đạn kiêm thiện xạ M79 của
tổ đại liên: Hạ sĩ Qúy... “mát”!
-Làm ăn được lắm!
Trung úy Võ Văn Hiền, Đại đội trưởng Đại đội 2 đến bên tôi từ lúc
nào không biết. Tôi vắn tắt kể lại diễn tiến trận đánh và không
quên kể công của mấy đứa em rồi nói đến sự may mắn của mình, đồng
thời cũng không dấu tâm trạng khó chịu và xấu hỗ vì dù sao tôi
cũng đã bỏ chạy theo lính. Thấy tôi cứ khổ sở lắc đầu, chắc lưỡi,
Trung úy Hiền bật cười, vỗ vai tôi, an ủi:
-Tôi hiểu tâm
trạng của chú. Nhưng chỉ “di tản chiến thuật” thôi mà. Không ai
nói gì chú đâu. Mà cũng đừng sợ tiếng xì xào. Kệ mẹ dư luận! Tôi
chứng kiến từ đầu tới cuối. Đại úy Vương của chú bị tụi nó tấn
công. Đại đội của tôi bị cầm chân tại chỗ, sau đó mới phản công
truy kích. Còn các nơi khác thì ăn pháo. Mình bị cô lập hoàn toàn
nên phải rút ra, nhưng rồi đánh trở lại ngay. Còn muốn gì nữa
chứ? Ừ! Thì cứ cho là chạy đi, nhưng mình thắng lớn! Kết quả
chung cuộc mới quan trọng. Đừng nản chí nghe!
Tôi thầm cảm
ơn người đàn anh tốt bụng nhưng chưa kịp nói lời gì thì Trung úy
Hiền nhìn quanh rồi chép miệng, nói một hơi:
-Mẹ kiếp!
Chắc là tụi nó định lập công để mừng ngày sinh nhật của thằng già
râu chứ gì? Tưởng dễ ăn như hồi 1972 không chừng. Mùa hè năm đó
chúng nó dứt đẹp hai ông Quận Trưởng trong một tháng. Cũng một
kiểu thí quân như hôm nay. Lần này gặp tụi mình thì tận số là
phải thôi! Mình vừa “vớt đẹp” một đơn vị chủ lực tỉnh và trả thù
cho Ba Tơ luôn thể. Chính quy đó nghe! Đám K8 lần này ôm đầu máu
cũng đáng lắm. Ê! Chú mày hạ được một “Xê Trưởng” thì công trạng
không nhỏ đâu!
Nghe khen thì cũng khoái trá thật. Nhưng
nhớ lại cảnh bỏ chạy khi chưa có thiệt hại gì đáng kể thì tôi lại
cảm thấy xốn xang trong lòng nên chỉ im lặng thừ người. Có đính
chánh cũng bằng thừa mặc dù lỗi không phải do mình. Thông cảm
được như ông Hiền thì tốt, còn không thì... Thôi cũng đành!
14H00. Họp với ban chỉ huy đại đội và các
Trung đội trưởng trên đồi chà-là, ngay tuyến của Trung đội 3.
Vương Vũ có lời khen chúng tôi gần giống như những gì Trung úy
Hiền đã nói sau khi phân tích những khuyết điểm mà chúng tôi đã
vấp phải. Ông không trách tôi, dù một lời, về việc bỏ chạy mặc dù
có nói khéo là “... Các anh cần học hỏi nhiều hơn nữa để tránh
quyết định sai lầm. Trong quân trường thì còn làm lại cho đúng và
chỉ trả giá bằng mồ hôi. Nhưng ngoài mặt trận thì mỗi lần mình
làm sai là có đổ máu, và có khi phải trả giá bằng sinh mạng của
đồng đội...” Có thể vì ông không muốn làm tôi mất mặt, hoặc lính
tráng đã rỉ tai nhau về những việc đã xảy ra với Trung đội 1 của
tôi. Cũng có thể Thượng sĩ Trữ, cánh tay mặt của ông đã biết và
tường trình mọi chuyện sau khi giúp tôi lấy lại vị trí, nên ông
gián tiếp bày tỏ sự thông cảm. Nhưng tôi chạnh lòng và cảm thấy
xấu hổ khi Đại úy Vương nhắc lại việc chúng tôi mất liên lạc với
ông đến gần 15 phút và cho biết chính ông cũng hoang mang không
hiểu mấy bóng người đang chạy về hướng đại đội là bạn hay địch.
“... Cũng may là không có sự ngộ nhận nào xảy ra. Thế mới biết:
làm gì thì làm, đừng bao giờ để mất máy truyền tin...”
Trước khi tan buổi họp, “Bố Già” có đề cập đến việc Chi Khu Mộ
Đức sẽ tổ chức khao quân cho cả tiểu đoàn và cho biết là liên
đoàn sẽ chạy huy chương cho những người hữu công, vì có thể nói
là Đại đội 3, cùng với sự tiếp tay của Đại đội 2 đã vừa đẩy lui
một đơn vị chủ lực tỉnh gồm toàn chính quy của địch với tổn thất
có thể gọi là khá nhẹ: 1 chiến sĩ hy sinh là Trung sĩ nhứt Hoàng,
Trung đội phó của Vân, cùng với 7 người bị thương, trong đó tính
luôn anh bạn “Ti Vi” đang khò khè vì bị miểng bê-ta cứa cổ nhưng
vẫn ở lại với trung đội của mình. Bù lại, không kể đến thành tích
của cả đại đội thì chỉ ngay tuyến của Trung đội 1, địch đã bỏ lại
tổng cộng 6 xác và một số vũ khí, đạn dược, đáng kể nhứt là chiếc
PRC25. Ngoại trừ Nguyễn Thanh Vân đang khổ sở vì đau rát nơi cổ,
và cá nhân tôi hãy còn ngượng ngùng vì chuyện bỏ tuyến nên đâm ra
ít nói, thì những người còn lại đều không dấu niềm vui sau những
giờ phút căng thẳng. Về phần tôi thì từ lúc im tiếng súng cho đến
giờ, tôi chỉ nghĩ đến vận may của mình và trân trọng khả năng
cùng ý chí của những người lính như Thượng sĩ Trữ, như Sơn “chẩu”
và Qúy “mát”, cũng như của cả nhóm 5 đứa em khinh binh được trả
lại cho trung đội. Tôi cũng không còn để bụng ghim gút những
người đã bỏ chạy. Xét cho cùng, họ cũng là con người. Dù sao thì
toàn thể trung đội đều có công trạng, đồng thời đã gián tiếp giúp
tôi “rửa mặt” để còn ngẩng đầu nhìn mọi người. Tôi thầm cảm ơn họ
và ghi nhận món nợ mà tôi sẽ không biết phải đền trả ra sao cho
trọn nghĩa chi binh. Tôi cũng thầm cảm ơn Bề Trên đã gìn giữ tôi
qua những giây phút “nghẹt thở”, nhứt là khi sờ soạng tìm khẩu
Colt 45 bị đá văng khỏi tay và khi phóng chạy giữa tiếng đạn veo
véo quanh mình. Trên đường trở lại “ốc đảo” sau khi họp xong, tôi
dừng lại bên những ngôi mộ vùi nông thân xác của chiến binh cộng
sản mà chạnh lòng nghĩ đến người thân của họ ở bên kia vĩ tuyến.
Khi về đến vị trí của trung đội và nhìn mọi người vẫn hồn nhiên
cười đùa như không có gì xảy ra trong ngày, thì tôi bỗng dưng cảm
thấy mình thật hạnh phúc, thứ hạnh phúc của người lính trận còn
lành lặn sống sót sau một cuộc giao tranh, sống để tiếp tục yêu
đời, nhứt là để tận hưởng một ngày nắng đang vào hạ nên rất xanh
trời như hôm nay.
Huy Văn
(Trích từ NHẬT KÝ HÀNH QUÂN)
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
THIÊN SỨ MICAE - BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: Bộ Huy hiệu Sư Đoàn Nhảy Dù QLVNCH. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by MN Huỳnh Văn Của chuyển
Đăng ngày Thứ Năm, May 17, 2018
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang