Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Thời sự Á châu
Chủ đề: Thái Bình Dương
Tác giả: Văn Nguyên Dưỡng
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Lời giới thiệu:
Kính thưa quý vị trưởng thượng, thưa
quý bằng hữu.
Trong chuyến đi tham dự Hội Nghị APEC Đà Nẵng, Việt Nam vừa qua,
TT Trump đã thay chữ dùng khi gọi Vùng biển Thái Bình Dương và
Đông Nam Á bằng “Vùng Thái Bình Dương-Ấn Độ Dương”, nhiều lần
trong những cuộc phỏng vấn hay đối thoại. Như vậy, chính phủ
Trump đã thức thời hơn các chính phủ Obama và Clinton. Vùng biển
quan trọng này đã được nhìn thấy bởi các cố vấn chính trị và quân
sự chiến lược ở Bạch Ốc và Ngũ Giác Đài rõ ràng hơn trước đây.
Việc thành lập một liên minh chính trị & quân sự như chúng tôi đã
phác họa mấy năm trước đây có cơ hội hình thành nếu Trung Cộng
hoặc Bắc Hàn bước thêm một bước nữa trong việc tăng trưởng sách
lược quân sự ở Vùng Này. Hoa Kỳ cũng có thể viện lý do nếu Bắc
Hàn thử hỏa tiễn tầm xa hay bom khinh khí một lần nữa để chính
thức tuyên bố công khai thành lập NATO phương Đông mà trước đây
chúng tôi tạm đặt cho cái tên là PACINTO (hay PACINSTO). Lúc đó
VN sẽ tự động xin tham gia liên minh. Đây là phương cách duy nhất
trong tình thế hiện tại để VN Thoát Trung và không mất nước.
Chúng tôi cầu xin quý vị trưởng thượng
suy nghĩ cho cạn cùng và xin hết lòng lobby thêm các nhân vật
quan trọng trong Chánh phủ Trump tiến hành Liên minh này càng sớm
người Việt sẽ càng yên tâm hơn. Tôi thành thật cảm ơn quý vị và
quý bằng hữu đọc bản văn này và một lần nữa trân trọng khẩn cầu
quý vị chính trị gia, các học giả, các nhà trí thức Việt Nam, quý
tướng lãnh lưu vong đọc và dốc lòng tiến hành phương án này cứu
nguy cho đấu nước và dân tộc. Mong lắm thay.
Quý kính,
Vĩnh Định Văn Nguyên Dưỡng.
Tác giả “THE TRAGEDY OF THE VIETNAM WAR” (McFarland Co & Inc.
Publishers,
September 2008) và “INSIDE
ANLOC” the BATTLE THAT SAVE SAIGON
IN
1972 (McFARLAND Co & Inc., Publishers, 2016)
Honolulu, Hawaii tháng 11/12/2017
Lời Tác giả:
Kính thưa quý vi độc giả VN ở hải ngoại
Hoa kỳ xoay trục chiến lược về Á
Châu và Thái Bình Dương là cơ hội hãn hữu để nhân dân VN có cơ
hội giải thoát khỏi những chiếc vòi bẩn thỉu của con bạch tuộc
CSVN đang hút khô cạn dần mạch máu dân tộc và những móng vuốt sắc
nhọn của con rồng đỏ Trung Cộng đang bấu chặt vào da thịt tổ quốc
Việt Nam, mặc dù tôi đã nhìn thấy lớp sóng mạnh mẽ chống bạo
quyền Trung Cộng đang dâng cao của quần chúng Việt Nam trong nước
cũng như ở hải ngoại khi mới đây chúng thao túng Biển Đông, biến
cải các gộp đá ngầm thành những hòn đảo nhân tạo và những căn cứ
quân sự, muốn độc chiếm hành lang hàng hải từ Thái Bình Dương
sang Ấn Độ Dương. Lòng người Việt Nam trong giai đoạn khó khăn
này là muốn giải thể Đảng CSVN và thoát vòng cương toả của Trung
Cộng.
Hoài bão giải thể Đảng CSVN, thành
lập một thể chế tự do, dân chủ và “Thoát Trung” của quần chúng
Việt Nam là chính đáng. Tuy nhiên, chúng ta còn thiếu quá nhiều
yếu tố để thành công dù chỉ là thực hiện những mong ước nhỏ nhất
huống hồ gì làm một cuộc cách mạng to lớn như vậy. Vả lại biết
tìm ở đâu ra một giải pháp khả thi cho Việt Nam? Cũng không thể
đặt hy vọng vào bất cứ một nhà lãnh đạo nào trong số những chính
khách hay một nhà cách mạng nào đó ở hải ngoại hay một lãnnh tụ
CSVN nào hiện nay trong nước đủ tài năng và thu phục được nhân
tâm để chỉ đạo một công cuộc to lớn như vậy. Hiện tại có thể có
một Gorbatschow Việt Nam còn ẩn trong bóng tối, hay một cơ duyên
chưa thực sự chín mùi nên chưa đột phát... một cuộc cách mạng dân
chủ như mong muốn.
Sách lược
xoay trục về Á Châu và TBD của Hoa Kỳ tạo niềm tin lớn cho một số
quốc gia đang có tranh chấp lãnh thổ và lãnh hải với Trung Cộng
và là cơ hội tốt cho Việt nam thay đổi cơ chế xã hội từ đó sẽ có
những thay đổi thể chế chinh trị và quần chúng Việt Nam hy vọng
thực hiện được các mong ước kể trên. (Tuy nhiên, phải tìm hiểu rõ
thêm sách lược này của Hoa Kỳ. Nhất là của đương kim TT. Donald
Trump.)
Nguyên văn
chữ “pivot” trong Anh ngữ là xoay tròn trên một trục trung tâm,
có chu kỳ mang tính thời gian, dài hay ngắn tùy thuộc vào những
điều kiện chủ quan và khách quan.... Có nghĩa là trước đây, trục
chiến lược trọng tâm của Hoa Kỳ, sau Đệ II Thế Chiến, đã tiến qua
vùng Bắc và Đông Âu. Nhưng chỉ sau khi Hoa Kỳ bắt tay với Trung
Cộng năm 1972 và bỏ rơi Nam Việt Nam năm 1975, Hoa Kỳ mới thực sự
rảnh tay đối phó với Liên Xô dưới nhiều hình thức. Cuối cùng, bức
Tường Bá Linh sụp đổ năm 1989, kéo theo sự sụp đổ của Đế quốc
Liên Xô, chính thức năm 1991. Các nước Đông Âu tự giải phóng,
thiết lập thể chế dân chủ theo các nước Tây Âu. Như vậy, Hoa Kỳ
mất hơn bốn thập niên ở trục chiến lược Âu châu mới làm sụp đổ
Khối CSQT.
Sở
dĩ Hoa Kỳ mất nhiều thời gian như vậy vì phải:
* Trước
tiên là phải cứu nguy cho các nước Âu châu phục hồi kinh tế bị
suy sụp nặng nề hay phá sản trong Đệ II thế Chiến, kể cả Đức, Ý
và Nam Tư, với kế hoạch Truman-Marshall.
** Tiếp
đến, để chận đứng mối nguy bành trướng của Liên Xô sang các nước
Tây Âu bằng sự thành lập và củng cố khối Liên minh Quân sự NATO
chống lại khối WARSAW PACK của CS Đông Âu do Liên Xô lãnh đạo.
*** Giai
đoan kế tiếp là tiếp sức cho các nước tự do Âu châu thành lập
khối Âu Châu Thống Nhất EURO phát triển kinh tế, hành chánh, tài
chánh và xã hội thành một khối kinh tế thinh vượng.
**** Song
song với các sách lược trên, là sách lược lôi kéo Liên Xô vào
cuộc chiến tranh lạnh [the Cold-War] và cuộc chạy đua vũ trang
nguyên tử và phát triển khoa học không gian làm cho nền kinh tế
Liên xô bị khánh tận. Từ đó Liên Xô phải sụp đổ.
Sau đó trục
chiến lược chính của Hoa Kỳ quay sang vùng Trung Đông đối phó với
tình hình đột biến ở Trung Đông ảnh hưởng lớn đến chính tri, kinh
tế và nền an ninh toàn cầu. Và rồi trong 8 năm gần đây TT Obama
quá yếu kém để cho Trung Cộng chiếm trọn Biển Đông và chiếm và
bồi cải một số đảo nhỏ và gộp đá nổi trong quần đảo Trường sa
thành những đảo nhân tạo dựng những căn cứ quân sự lớn với phi
trường cho phi cơ chiến lược và với cả hệ thống phòng không hỏa
tiễn tầm xa, kiểm soát toàn bộ hệ thống giao thông quan trong Nam
Thái Bình Dương sang tận Tây Ấn Độ Dương.
Xin
trở lại dòng thời gian lịch sử vừa đề cập, chi tiết hơn:
1. Trước
tiên là sự kiện đảo chánh thay đổi thể chế chính trị ở Iran. Năm
1979, Iran lật đổ vương quyền, thiết lập “thể chế giáo trị” với
thượng tầng kiến trúc là một giáo chủ Hồi giáo như một quốc sư
toàn quyền và một tổng thống hành pháp căn cứ vào giáo luật kinh
koran. Iran là nước sản xuất dầu hỏa nhiều nhất ở Trung Đông, có
tiếng nói mạnh trong khối APEC.
2. Ngay năm
sau, 1980, Saddam Hussein, nhà độc tài Iraq, muốn làm lãnh chúa
Trung Đông, đem quân tấn công vào lãnh thổ Iran. Cuộc chiến kéo
dài 10 năm suốt dọc biên giới, bất phân thắng bại. Hiệp ước đình
chiến ký năm 1989. Tổn thất hai bên rất lớn vì cả hai quốc gia
Hồi giáo này đều đã dùng vũ khi hóa học và hỏa tiễn tầm xa. Điều
này khiến Hoa Kỳ và khối đồng minh NATO đặc biệt lưu ý, nhưng chỉ
theo dõi.
3. Ngày
2/8/1990, Saddam Hussein xua quân xâm chiếm Kuwait, xứ dầu khí
nhỏ, đông nam Iraq, trên bờ tây bắc Vịnh Á-Rập và ngày 8/8, tuyên
bố sáp nhập Kuwait vào lãnh thổ Iraq. Liên Hiệp Quốc lên án hành
động xâm lăng của Iraq. Đã đến giai đoạn Hoa Kỳ phải hành động.
Một lực
lượng liên quân LHQ được thành lập gồm 24 quốc gia với lực lượng
nòng cốt là Hoa Kỳ và Anh, do một Đại tướng Hoa Kỳ làm tổng tư
lệnh, mở cuộc hành quân Operation Desert Storm giải tỏa Kuwait
trong tháng 1 & 2, năm 1991. Đây là lần đầu tiên sau Đệ II Thế
Chiến một lực lượng liên quân LHQ lớn mạnh gồm hơn hai mươi nước
thành viên Liên Hiệp Quốc từ Âu, Á, Phi, Úc, Mỹ châu và một số
quốc gia Trung Đông kết hợp trong một cuộc chiến tranh. Kỳ thực
thì Hoa Kỳ chủ động trên mọi phạm trù chính trị, quân sự, kể cả
tình báo chiến lược và chiến trường. Quân Iraq bị đánh bật ra
khỏi Kuwait. Hòa ước ngưng bắn ký ngày 28/2/1991.
Nhưng tình
báo chiến lược Hoa Kỳ vẫn tiếp tục ghi nhận những phát triển vũ
khí hóa học và nghi ngờ Hussein đang tiến hành chế tạo vũ khí
nguyên tử. Việc thanh tra của các phái đoàn LHQ về vũ khí hóa học
và nguyên tử nhiều lần gặp trở ngại.
4. Nhưng,
bất ngờ sự kiện 911 diễn ra ngay trên nội địa Hoa Kỳ bởi tổ chức
Al-Qeeda do Osama bin Laden, một lãnh tụ Hồi giáo khác, nguy hiểm
gấp nhiều lần hơn Saddam Hussein làm thay đổi cục diện thế giới.
Hàng ngàn triệu tỷ dollars các nước Hoa Kỳ, Tây Âu và các nước
khác phải bỏ ra để canh tân nền an ninh quốc nội. Dù có nhiều
chống đối Hoa Kỳ, nhưng chiến tranh ở Afghanistan -sào huyệt của
Osama Bin Laden- và Iraq của Saddam Husein vẫn phải diễn ra dưới
thời 2 chính phủ Bush (cha và con). Và cả hai lãnh tụ này đã bị
diệt vong dưới thời chính phủ Obama. Đến khi cuộc Cách Mạng Mùa
Xuân của giới trẻ BẮc Phi chuyển qua nhiều nước thành công, đến
Syria, Nga can thiệp vào cuộc chiến tranh ở đây, cuộc cách mạng
Mùa Xuân bị dừng lại, nhóm ISIS hình thành. Cuộc chiến trở nên
khốc liệt hơn, với những cảnh giết chóc tàn bạo hơn. Hoa Kỳ đã
khôn ngoan hơn Nga, bỏ chiến trường Syrie cho Putin giải quyết.
Đến nay thì người ta thấy rõ cặp bài trùng Putin-Assad đã tạo nên
thảm cảnh cho Syria.
Trong khi
đó, lợi dụng sự bận tâm của Hoa Kỳ ở Trung Đông hơn hai thập
niên, Trung Cộng bắt đầu trổi dậy như con khủng long, muốn nuốt
chửng Biển Đông và Đông Nam Á. Bắt buộc Hoa Kỳ, coi giảm nhẹ tình
hình Trung Đông chuyển trục chiến lược sang Á Châu và Thái Bình
Dương, dù hơi trễ nhưng chưa muộn. Tuy nhiên sự yếu kém của TT.
Obama là cơ hội là yếu tố quan trọng giúp cho Trung Cộng bành
trướng mạnh quốc sách “Nhất Đái, Nhất Lộ” hay Một Vành Đai và Một
Con Đường và đã chiếm trọn Biển Đông như nói trên...
Chúng tôi
đề nghị quý vị trưởng thượng và quý bạn xin cùng chúng tôi theo
dõi và phân tích sách lược đó của Hoa Kỳ và thủ đoạn trường kỳ
bành trướng của Trung Hoa cộng sản. Nếu có gì sơ sót xin quý vị
chỉ bảo, chúng tôi sẽ chấn chỉnh. Thành thật cám ơn.
Văn Nguyên Dưỡng
Trân Châu Cảng
6-6-2017
THAM LUẬN CHÍNH
LUẬN
ÁN “GIẢI PHÁP HÒA BÌNH CHO TBD”
PHẦN I: THÁI BÌNH DƯƠNG NỔI
SÓNG
-----ooOoo-----
(Chúng tôi xin đưa ra công luận một luận thuyết về một hiệp ước quân sự ở Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương tạm mệnh danh là “PACINTO” (Pacific & Indian Oceans Treaty Organization) trong tham luận THÁI BÌNH DƯƠNG NỔI SÓNG.)
LỜI PHI LỘ
Với
quyết tâm đập nát Trung Hoa cộng sản của TT Donald Trump Hoa Kỳ,
hành động thực tế và quyết đoán hơn vị tiền nhiệm, tiến hành sách
lược xoay trục về Thái Bình Dương và Đông Á, là cơ hội bằng vàng
cho Việt Nam thay đổi cơ chế chính trị và Thoát Trung. Ngược lại,
nếu các lãnh tụ CSVN còn u mê, đất nước sẽ không thoát khỏi ách
thống trị của kẻ thù Phương Bắc một lần nữa.
Trước sự lộng hành của Trung Cộng, với
những cuộc đánh chiếm Hoàng Sa năm 1974 và Trường Sa năm 1988, vẽ
bản đồ với 9 đoạn lưỡi bò và tuyên bố chủ quyền trên vùng lãnh
hải đó bao gồm hơn 80% của Biển Đông Nam Á -thường được gọi là
South China Sea. Các hành động cường bạo đó tạo nên sự chống đối
và tranh chấp về các nhóm quần đảo trong vùng biển này.
Tuy nhiên, những hành động trên chỉ là
những bước đầu tiên của kế hoạch rộng lớn tuần tự “nuốt chửng”
các nước Đông Nam Á, như Mao Trạch Đông từng chủ trương trước
đây, là làm chủ trọn vẹn vùng biển rộng lớn Nam Thái Bình Dương
và con đường hàng hải huyết mạch từ đó sang Ấn Độ Dương đến tận
Châu Âu. Nghĩa là tranh chấp quyền làm chủ nhân độc tôn với Hoa
Kỳ vùng Trung Nam Thái Bình Dương, Nam Ấn Độ Dương và Á Châu và
xa hơn là viễn ảnh thay thế vai trò hiện tại của Hoa Kỷ trên thế
giới. Tập Cận Bình đặt tên cho sách lược này là “Một Vành Đai và
Một Con Đường” (One Belt & One Road). Tập và Đảng CSTQ đầu tư vào
sách lược này một khối lượng kinh phí khổng lồ chưa từng thấy từ
ngày Đảng CSTQ chiếm trọn lục địa Trung Hoa, 124 tỷ Mỹ Kim.
Để thực hiện sách lược vĩ mô đó, nhất
là về Con Đường (hay nói rõ hơn là con đường hàng hải) bước thứ
hai -là bước thử thách quan trọng nhất- dù đang phải đối đầu với
sự phản kháng bằng nhiều hình thức của các quốc gia có làn ranh
hải phận “9 đoạn lưỡi bò” như Nhật, Phi Luật Tân, Việt Nam,
Brunei, Mã Lai... Trung Cộng đã từng kiện Nhật chiếm các hải đảo
Điếu Ngư (Diaoyu hay Senkaku) trước Liên Hiệp Quốc năm 2012 cho
rằng Nhật đã vi phạm Điều 76 Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển
trong khi chính Trung Cộng đã dùng bạo lực chiếm đoạt phần lớn
các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam và áp đặt chủ
quyền trên Biển Đông Nam Á, ĐƯƠNG NHIÊN CƯỠNG ĐOẠT ít nhất là 160
hải lý của Thềm Lục Địa Việt Nam, 175 hải lý của các Thềm Lục Địa
Phi Luật Tân và Mã Lai, tức là chiếm 4/5 Thềm Lục Địa của Việt
Nam và 7/8 Thềm Lục Địa của Phi và Mã Lai. Trung Cộng vi phạm thô
bạo Luật Biển nói trên của Liên Hiệp Quốc.
Sau đó, Trung Cộng tuyên bố “Vùng Nhận
Diện Phòng Không” (ADIZ -Air Defense Identification Zone) trên
không phận rộng lớn Biển Hoa Đông (North-East China Sea) tháng
11, năm 2013. Đây là một thử thách lớn của Trung Cộng đối với
Nhật, kể cả Nam Hàn, Đài Loan và, dĩ nhiên, người đồng minh lớn
của các nước này là Hoa Kỳ. Lực lượng Hoa Kỳ ở Thái Bình Dương
cho hai chiếc B-52 bay ngang không phận của ADIZ đó. và trong năm
2018, nhiều lần cho tàu chiến tuần tra khu vực biển sát với các
căn cứ mới xây dựng trong quần đảo Trường Sa. Sự kiện này chứng
tỏ Hoa Kỳ thực sự tái lập sự hiện diện quân sự của mình ở Đông Á
và Nam Thái Binh Dương. Tiếp theo là liên minh quân sự được tái
lập hay tăng cường giữa Hoa Kỳ-Nam Hàn, Hoa Kỳ-Nhật, Hoa Kỳ-Phi
Luật Tân, Hoa Kỳ-Úc. Có đến 60% lực lượng quân sự, nhiều nhất là
hả quân, trở lại vùng chiến lược quan trọng này và qua những hiệp
ước đó, Hoa Kỳ có thể đóng quân -gồm hải, lục, không quân và thủy
quân lục chiến- trên một số căn cứ quân sự của Nhật, Phi và Úc,
sẵn sàng cho một thế “đối đầu” mới với Trung Cộng. Xa hơn nữa,
Hoa Kỳ cũng đã liên kết được Ấn Độ tham gia bảo vệ hành lang hàng
hải này mà TT Trump gọi là Vùng Thái Bình & Ấn Độ Dương và cải tổ
Bộ Tư Lệnh Thái Bình Dương thành Bộ Tư Lệnh Thái Bình & Ấn Độ
Dương.
Trong
khi đó, tuy Chủ tịch nước kiêm Tổng Bí Thư Đảng CSTQ, Tập Cận
Bình tuyên bố chủ trương hòa hoãn, không dùng vũ lực tấn công
khối đồng minh Hoa Kỳ và các nước Đông Nam Á, nhưng trên thực tế
Trung Cộng tiếp tục triển khai âm mưu thôn tính Biển Đông Nam Á
và khống chế hành lang hàng hải từ Thái Bình Dương sang Ấn Độ
Dương bằng những hành động thô bạo. Nhắc lại, năm 2014 Trung Cộng
đưa Giàn khoan HD 981 vào nhóm đảo Tri Tôn, trong quần đảo Hoàng
Sa thuộc hải phận Việt Nam. Mục đích không phải để khai thác mỏ
dầu nhưng để thăm dò phản ứng của Việt Nam, các nước ASEAN, và
Hoa Kỳ. Đảng CSVN và chính quyền phản ứng yếu ớt nhưng quần chúng
sôi sục biểu tình đòi chính phủ phải có những biện pháp mạnh mẽ
hơn. Công An lúc đầu còn làm ngơ, nhưng sau đó các cuộc biểu tình
từ Nam ra Bắc đều bị đàn áp dã man và dập tắt, gây nên phong trào
chống đối rộng lớn của sinh viên và giới trí thức yêu nước đối
với Đảng Chính phủ và Công An đảng CSVN. Các nước ASEAN ngỡ ngàng
nhưng không có phản ứng nào đáng kể. Riêng Hoa Kỳ quan tâm hơn;
đặc biệt Thượng viện ra quyết nghị yêu cầu Trung Cộng phải rút
giàn khoan đi. Lần này, Tập Cận Bình nhượng bộ. Người ta chưa rõ
lý do chính tại sao Trung Cộng hành xử như vậy? Đây là lần thứ
hai Hoa Kỳ can thiệp vào ý đồ chiếm đoạt các quần đảo trong Biển
Đông Nam Á, nơi đang diễn ra tranh chấp chủ quyền giữa Trung Cộng
với Việt Nam và hai đồng minh của Hoa Kỳ là Nhật và Phi Luật Tân.
Các giới bình luận cho rằng Trung Cộng
sẽ không tạo thêm tình trạng bất ổn ở vùng Biển Đông Nam Á, khi
Hoa Kỳ tuyên bố không đứng vào bên nào về việc chủ quyền của các
quần đảo đang tranh chấp và yêu cầu các nước trong cuộc nên giải
quyết các vùng lãnh hải căn cứ trên nền tảng Công Ước Liên Hiệp
Quốc về Luật Biển năm 1982 (The United Nations Convention on the
Law of the Sea -UNCLOS, 1982) mà Trung Cộng đã ký năm 1994 với tư
cách là một trong 5 ủy viên của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc.
Hành động lơ lững này của Chính phủ Obama đã bị Trung Cộng coi
thường.
Chính
trong thời gian đó, Trung Cộng không ngừng phát triển lực lượng
hải quân và các vũ khí phòng thủ diện địa, như các loại hỏa tiễn
DF (DF-21 diệt Hàng Không Mẫu Hạm, DF-41 có tầm bắn xa đến Thủ đô
Washington của Hoa Kỳ), nhất là phát triển lớn lao về Không Quân
chiến lược. Nhưng điều mà không ai ngờ là Trung Cộng đã triệt để
theo đuổi “Giấc Mơ Trung Cộng” quá sớm là làm bá chủ Á Châu, Biển
Đông Bắc, hay Hoa Đông (North-East China Sea, bao gồm eo biển Nam
Hàn, Nhật Bản, Đài Loan, Nam Hải) và Biển Đông Nam Á (South-East
Asia Sea) xuyên qua Ấn Độ Dương, qua Hồng Hải, vào Địa Trung Hải,
và đến thành phố Venice, thuộc Ý, Âu Châu. Đó là sách lược “Lam
Sắc Quốc Thổ”, hay “Chiến lược Biển Xanh”, bằng cách mở lại con
đường hàng hải gọi là “Con Đường Tơ Lụa Biển, Thế kỷ 21”. Mặt
khác, Trung Cộng còn mở con đường bộ xuyên lục địa, gọi là “Con
Đường Tơ Lụa Lục Địa” là hệ thống đường tàu hỏa siêu tốc từ biên
giới phía tây Trung Cộng xuyên qua Trung Á, Iran, Iraq, Syria,
Thổ Nhi Kỳ, rồi cũng đến trạm chót Venice. Hai con đường tơ lụa
này là hai cánh tay, một cứng (hard-power) một mềm (soft power),
vươn từ Trung tâm Bắc Kinh sang Nam, Trung Á đến châu Âu. Sau này
giới quan sát quốc tế ghi nhận đó là sách lược “Nhất Đái Nhất
Lộ”. Mục đích chính là dùng sức mạnh kinh tế và quân sự loại Hoa
Kỳ ra khỏi Á Châu, bao gồm các đại dương và các biển nhỏ hơn của
châu lục này. Mục đích quan trọng khác là hai con đường chiến
lược này yểm trợ trực tiếp cho sự phát triển kinh tế đang trên đà
tuột dốc của Trung Cộng. Thưc vậy, Tập Cận Bình tuyên bố lập quỹ
chi phí lo kiến thiết hai con đường tơ lụa và đóng góp 40 tỷ Mỹ
kim để phát triển kinh tế Á Châu, đồng thời kêu gọi thực hiện
“Khu Vực Tự Do Mậu Dịch Châu Á-Thái Bình Dương” (Free Trade Area
of the Asia-Pacific -FTAAP) với việc cho khai trương Ngân Hàng
Đầu Tư Hạ Tầng Cơ Sở Châu Á (Asian Infrastructure Investment Bank
-AIIB), được 20 quốc gia tham gia. Sách lược kimh tế này cũng
nhằm mục đích phản đối và cạnh tranh với “Hiệp Ước Đối Tác Kinh
Tế Chiến Lược Xuyên Thái Bình Dương” (Trans-Pacific Strategic
Economic Partnership Agreement, viết gọn là Trans-Pacific
Partnership -TPP) do Hoa Kỳ chủ trương và Ngân Hàng Quốc Tế
(World Bank), kể cả Quỹ Tiền Tệ Quốc tế (IMF). Rõ ràng, Trung
Cộng nghĩ rằng đã đến thời điểm có đủ sức mạnh quân sự và kinh tế
để đẩy lùi Hoa Kỳ ra khỏi Á Châu; xa hơn nữa là vượt qua Hoa Kỳ,
trở thành thế lực độc tôn của thế giới. Ưu tiên tiến hành giấc
mộng lớn này của Trung Cộng là “Chiến Lược Biển Xanh” hay “Nhất
Lộ” nói trên. Tức là mở “Con Đường Tơ Lụa Trên Biển” xuyên Nam
Thái Bình Dương trước.
Mặc dù đã khinh thường luật biển của
Liên Hiệp Quốc, ấn định thềm lục địa của mỗi quốc gia ven biển và
đại dương tối thiểu là 200 hải lý, Trung Cộng đã ngang nhiên vẽ
bản đồ 9 đoạn lưỡi bò ép các nước ven biển phía nam bó sát vào
thềm lục địa hạn hẹp từ 25 đến 47 hải lý là tối đa của mình, và
tuyên bố chủ quyền trên vùng biển quốc tế rộng lớn 300 triệu km²
trong Biển Đông Nam Á, đánh chiếm Hoàng Sa và một phần quần đảo
Trường Sa của Việt Nam, bọn lãnh tụ Trung Nam Hải vẫn chưa hài
lòng, từ năm 2014, chúng đã đưa tàu, phương tiện và nhân lực hùng
hậu cấp tốc cạo vét lòng biển lấy cát sạn, bồi đắp, cải tạo các
gọng đá, bãi đá hay san hô ngầm (reefs), thành các đảo nhân tạo
(artificial islands) trong quần đảo Trường Sa, rồi biến các đảo
này thành các căn cứ quân sự với các kiến trúc qui mô như bến
cảng hải quân, phi đạo, cơ ngơi và hệ thống bố phòng kiên cố. Nếu
tính từ hướng bắc xuống, Trung Cộng đã cải tạo và phát triển căn
cứ Phú Lâm (Woody Island) trong quần đảo Hoàng Sa thành một căn
cứ hải quân quan trọng và 7 đảo nhân tạo trong quần đảo Trường
Sa: Subi, Gaven, Mischief hay Vành Khăn, Hughes hay Huy Cơ, Fiery
Cross hay Chữ Thập, Johnson South hay Gạc Ma, và Cuarteron hay
Châu Viên. Đảo nhân tạo nhỏ nhất là Huy Cơ rộng 9.2 hecta, đảo
cải tạo quan trọng nhất trong nhóm là Chữ Thập rộng 180 hecta
được kiến tạo qui mô như một căn cứ quân sự hiện đại với phi đạo
dài, bến cảng rộng lớn mà các tàu chiến loại lớn cập bến và ra
vào dễ dàng, có thể hoạt động toàn khu vực trục hành lang hàng
hải quốc tế từ vùng quần đảo Trường Sa, phía nam Mã Lai và Brunei
đến eo biển Malacca của Mã Lai.
Cho đến hiện tại, Trung Cộng đã thiết
lập trên toàn khu vực Trường Sa từ những bãi đá chìm thành những
căn cứ quân sự với tổng số diện tích 1,692,000 m² cơ cấu kiến
trúc, đều bằng be-tong, và qui cách kiến tạo gần giống nhau về
hình dạng. Một điều cần lưu ý, cũng cho đến hôm nay, Việt Nam còn
giữ và đóng quân thường trực trên 9 đảo nổi và 12 đảo ngầm trong
quần đảo Trường Sa như phát biểu của Tướng Phùng Quang Thanh, cựu
Bộ Trưởng Quốc Phòng Việt Nam. Tức là vẫn còn chiếm đa số diện
tích tổng thể nhưng chưa có một căn cứ quân sự hiện đại như các
đảo nhân tạo của Trung Cộng. Trung Cộng đóng quân trên 8 đảo, Phi
luật tân cũng 8 đảo, Mã Lai 4 đảo. Brunei không có một đảo nào.
Hòn đảo nhân tạo Gaven của Trung Cộng
chỉ cách đảo Nam Yết của Việt Nam chừng 5km. Hai căn cứ nhân tạo
Hughes và Johnson South cùng nằm chung với nhóm 4 đảo của Việt
Nam. Vậy mà, từ suốt 27 năm kể từ khi bị Trung Cộng đánh chiếm
một phần quần đảo, Việt Nam chỉ phản ứng yếu ớt, và cũng làm ngơ
cả việc cải tạo qui mô của Trung Cộng gần đây... Trong khi đó,
Phi Luật Tân đã phát hiện ra và kiện Trung Cộng xâm chiếm các hải
đảo và kiến tạo các bãi đá ngầm thành các đảo nói trên đến những
cơ quan pháp luật quốc tế... Thử hỏi những phản ứng tự vệ và phản
biện yếu ớt của Việt Nam có đủ để giữ những hòn đảo còn lại của
tổ quốc trong quần đảo Trường Sa hay không?
Công trình xây cất trên các đảo nhân
tạo đến cuối năm 2017 đã hoàn tất. Hoa Kỳ phản ứng bằng sự tuyên
bố không chấp nhận chủ quyền trên 9 đoạn lưỡi bò và các đảo nhân
tạo của Trung Cộng. Các nhân vật lãnh đạo chính trị, quân sự,
ngoại giao trong chính phủ Obama, kể cả Tổng thống và Phó Tổng
Thống, kể cả các nhân vật quan trọng trong Quốc Hội, gần đây
trong các diễn đàn quốc tế như Liên Hiệp Quốc (UN), Tổ Chức
Thương Mại Quốc Tế (WTO), Hợp Tác Kinh Tế Á Châu - Thái Bình
Dương (APEC), Diễn đàn Tổ chức ASEAN, Hội Nghị Cấp Cao ASEAN + 3,
Diễn Đàn Hợp Tác Á-Âu (ASEM), Hội nghị Cấp Cao ASEAN-Trung Cộng,
Hội nghị Cao Cấp Đông Nam Á (EAS) kể cả các cuộc Đối Thoại tổ
chức ở Khách Sạn Shangri-La Singapore (Dialogue Security
Conferences in Singapore) cùng có chung luận điệu bảo vệ hành
lang hàng hải huyết mạch này của thế giới và phản đối hành động
ngang ngược của Trung Cộng trên Biển Đông. Tiêu biểu nhất là lời
phát biểu của Phát Ngôn viên Tòa Bạch Ốc Josh Earnest về quan tâm
của TT Obama: “TT thường xuyên đề cập tới tầm quan trọng của an
ninh trên Biển Đông vì nó quan trọng đối với nền an ninh toàn
cầu... Do đó, tự do thương mại trên Biển Đông phải được duy trì.”
Tuy nhiên nói chỉ để tạo niềm tin cho các Đồng Minh Á Châu, nhưng
chưa làm được gì để cản trở sự bành trướng của Trung Cộng, mặc dù
quan tâm của Tổng thống Obama về Biển Đông cũng là quan tâm của
các vị nguyên thủ quốc gia Nhật, Phi, Nam Dương, Úc, Mã lai, và
Ấn Độ, kể cả Anh quốc và Nga. Tuy nhiên, hình như Trung Cộng đã
ngang ngược coi thường quan điểm chung về an ninh của hành lang
hàng hải quốc tế quan trọng này nên suốt thời điểm đó, chúng vẫn
tiếp tục xây dựng thêm cơ ngơi trên các đảo đã chiếm đoạt của
Việt Nam. Trong tháng 5, 2015, chiến đấu cơ Trung Cộng đã mấy lần
cảnh giác phi cơ và tàu thám thính Hoa Kỳ ở hải phận quốc tế, gần
các đảo đang xây dựng. Hoa Kỳ tuyên bố sẽ tiếp tục duy trì hoạt
động tuần thám trên vùng biển Trường Sa đồng thời các giới chức
cao cấp Hoa Kỳ nhiều lần yêu cầu Trung Cộng ngưng ngay các công
tác xây dựng trên các đảo đó. Để phản ứng, Ngoại trưởng Trung
Cộng Vương Nghị tuyên bố mạnh bạo: “Quyết tâm bảo vệ chủ quyền và
vẹn toàn lãnh thổ của Trung Cộng vững như đá.” Trước sau gì Trung
Cộng cũng vẫn xác quyết chủ quyền trên vùng biển lưỡi bò độc
chiếm trong đó có 7 đảo nhân tạo đã xây dựng xong, còn tiếp tục
kiện toàn. Và Trung Cộng đã có những hoạt động tăng kích và khiêu
khích trắng trợn hơn để chứng tỏ quyết tâm.
Trong tuần lễ cuối tháng 5-2015, Hoa Kỳ
ghi nhận thêm Trung Cộng đã đưa các giàn pháo binh di động vào
đảo nhân tạo Subi và xây cất hai ngọn hải đăng trên 2 đảo Gạc Ma
và Châu Viên. Ngày 26-5-2015, Trung Cộng công bố sách trắng quốc
phòng “Chiến Lược Quân Sự của Trung Cộng” bao gồm sách lược phát
triển tiềm năng quân sự về Biển Cả (The Ocean), về Ngoại Tầng Khí
Quyển (Outer Space), về Lực lượng Nguyên Tử, (Nuclear Force) và
về Không Gian Ảo hay Không Gian Mạng (Cyber-Space). Cuối tháng,
trên Diễn Đàn Đối Thoại Shangri-La, ở Singapore, Tổng Trưởng Quốc
Phòng Hoa Kỳ Ashton Carter, đã lên án Trung Cộng “đã vượt quá
hàng rào chuẩn mực qui ước quốc tế, vi phạm an ninh khu vực Á
Châu-Thái Bình Dương được sự đồng thuận của các nước trong khu
vực là ủng hộ hình thức ngoại giao chống lại sự cưỡng bức.” Sau
đó Ông Carter đến Việt Nam từ 31-5 đến 2-6-2015 hội thảo với Bộ
Trưởng Quốc Phòng Phùng Quang Thanh và ký một thỏa thuận đầu tiên
là “Thông Cáo Chung về Viễn Cảnh Hợp Tác Quốc Phòng”. Hy vọng sẽ
có một hiệp ước quân sự song phương giữa hai nước... trong tương
lai để rồi Việt Nam sẽ được Hoa Kỳ tăng cường tiềm năng quân sự
cùng hợp tác chống Trung Cộng... và bảo vệ thềm lục địa ở Biển
Đông, kể cả các đảo còn lại trong quần đảo Trường sa! Cũng trên
diễn đàn này, Thứ Trưởng Quốc Phòng Nga Anatoly Antonow tuyên bố
Nga sẽ tiến hành tập trận với đồng minh Brunei ở Biển Đông vào
năm 2016. Như vậy là Nga cũng sẽ nhập cuộc; nhưng chưa biết ngả
về Hoa Kỳ và đồng minh hay Trung Cộng, hoặc sẽ giúp Brunei chiếm
một số ít đảo trong quần Đảo Trường Sa? Năm quốc gia trong Khối
Liên Minh Quân Sự FDA (Five Powers Defense Agreement) ở Đông Nam
Á và Thái Bình Dương gồm Anh, Úc, Tân Tây Lan, Mã Lai và
Singapore cũng lên tiếng phản đối Trung Cộng. Ấn Độ cũng lên
tiếng cảnh giác.
Tuy nhiên, thái độ của Trung Cộng là
bất chấp những hiệp ước an ninh song phương hay đa phương như
vậy. Vì coi đó là các hiệp ước chưa đủ sức mạnh đáng sợ. Tờ báo
Hoàn Cầu, cơ quan ngôn luận chính của họ, ngày 26-5-2015 đã viết
chi tiết về sự thay đổi nhãn quan thu hẹp phòng thủ diên địa, hải
phận mà nhìn xa hơn ra ngoài đại dương, chuyển thế thủ bằng thế
công. Tờ báo chỉ trích các nước ngoài... đang bận rộn xen vào
chuyện nội bộ của Biển Đông. Tiếp theo là luận điệu cứng rắn cho
rằng “Sự xung đột sẽ không tránh khỏi nếu Washington không để yên
cho Bắc kinh xây dựng các tiện nghi quân sự trên các đảo đang
tranh chấp ở BIển Đông. Chúng tôi (Trung Cộng) không muốn có một
cuộc chiến với Hoa Kỳ. Nhưng nếu chiến tranh diễn ra, chúng tôi
sẽ tiếp nhận”. Song song với luận điệu ví như ở vào thế bị động
này, bộ mặt bá quyền hung bạo của Trung Cộng cũng lộ rõ bằng
những sự kiện hiển nhiên đang tiếp tục phát triển từ Biển Đông
sang Ấn Độ Dương.
Một là: Tiếp tục tiến
hành “Sách Lược Biển Xanh” tức là kiện toàn “Con Đường Tơ Lụa
Trên Biển hay kiện toàn Sâu Chuổi Ngọc Trai” (Nhất Phiến Trân
Châu - String of Pearls) hay là một dãy dài các đảo và căn cứ
hàng hải từ đảo Hải Nam xuống Hải Phòng, qua đảo Phú Lâm ở Hoàng
Sa, qua 7 đảo nhân tạo Trường Sa, qua Sihanoukville Kampuchia,
qua kinh đào Kra (đang được xúc tiến ký kết giữa Trung Cộng và
Thái Lan) xuyên Vịnh Thái Lan sang Andaman ở Ấn Độ Dương -tàu chở
dầu, vận tải của Trung Cộng có thể thu ngắn hành trình từ 2 đến 5
ngày, hay 1,200 km vì không cần qua eo biển Malacca. Từ Andaman
không cần qua Cảng Chittagong Bangladesh ở phía bắc, mà đi thẳng
hướng tây qua căn cứ Colombo và các căn cứ Hambantoba của
Sri-Lanka và Marao thuộc quần đảo Madives, qua căn cứ Socotra
ngoài khơi Berbera trước khi vào căn cứ Djibouti ở trong cửa Hồng
Hải, theo Hồng Hải qua Kinh Suez, vào Địa Trung Hai rồi chuyển
sang biển Adriatic Sea và đến bến Venice ở bờ bắc biển này, thuộc
Y (Italy)... Tất cả các đảo, bến cảng, căn cứ nói trên đã được
Trung Cộng dùng quyền lực mềm mua chuộc cả rồi.
Hai là: Khi công bố
sách trắng “Chiến Lược Quân Sự của Trung Cộng”, phát ngôn viên Bộ
Quốc Phòng Trung Cộng, Đại Tá Dương Vũ Quân, tuyên bố Quân Đội
Trung Cộng PLA (People Liberation Army) sẽ phát triển mạnh hơn
tiềm năng không lực, nhất là hải lực để đáp ứng nhu cầu mới trong
chiến lược toàn cầu mà báo chí Âu-Mỹ gọi là “Chủ trương Can Thiệp
Toàn Cầu của Trung Cộng”. Chiến lược toàn cầu này được giải thích
là Trung Cộng sẽ thay đổi quan niệm phòng thủ diện địa và hải nội
vượt ra ngoài lãnh địa và hải phận Trung Cộng mà Dương phát biểu
là “Để đáp ứng yêu cầu mới từ lợi ích chiến lược phát triển đất
nước, lực lượng vũ trang sẽ tham gia tích cực vào cả hai hợp tác
an ninh khu vực và quốc tế lẫn bảo vệ hiệu quả lợi ích của Trung
Cộng ở quốc ngoại.” Dương giải thích, “Có nghĩa là Trung Cộng chủ
trương chiến lược chuyển từ phòng vệ lãnh thổ sang ‘phòng vệ lãnh
thổ và tấn công’ dựa vào sự phát triển của không quân, nhất là sự
thay đổi lớn lao của hải quân, với mục đích chuyển trọng tâm
phòng vệ nội hải sang ‘tăng trưởng phòng vệ nội hải và phòng vệ
hải phận quốc tế,’ bảo toàn các tuyến giao thông chiến lược.”
Quan trọng hơn, Dương Vũ Quân luu ý đến trọng tâm chiến lược của
Trung Cộng về “Tầm Nhìn về Vai Trò Toàn Cầu Hơn của Quân Đội
Trung Cộng. Rõ ràng, ngoài chủ trương cạnh tranh kinh tế, Trung
Cộng còn cạnh tranh với Hoa Kỳ về quân sự để chiếm vị trí số 1
thế giới trong tương lai...”
Báo chí thế giới ghi nhận chỉ dấu đầu
tiên cho thấy Trung Cộng đang bắt đầu thực thi sách lược chuyển
từ quan niệm phòng thủ sang tấn công bằng đưa nhiều tàu thám
thính vào vùng biển Hawaii theo dõi hoạt động của Hạm Đội Thái
Bình Dương Hoa Kỳ và chuẩn bị đụng trận với Hoa Kỳ ở Biển Đông,
đúng như lời tuyên bố của Dương Vũ Quân -“China must prepare for
potential conflict with the United States in the South China Sea
while more maritime surveillance vessels are being deployed to
Hawaiian waters to monitor the activities of the U.S. Pacific
Fleet.”(1*)
Tất nhiên, trước tiên Hoa Kỳ không thể
để cho Trung Cộng ngang nhiên tung hoành ở Biển Đông và hoàn
thành “Con Đường Tơ Lụa Trên Biển” và... có thể tuyên bố “Vùng
Nhận Diện Phòng Không -ADIZ” trên Biển Đông và trên quần đảo
Trường Sa.
Ngược lại, các nhà lãnh đạo chính trị, quân sự Hoa Kỳ cho rằng
lợi ích quốc gia của Hoa Kỳ ở Biển Đông là: “Tự do hàng hải, hàng
không, cũng như bảo vệ cam kết tự do hàng hải, hàng không với thế
giới với tư cách là cường quốc quân sự số 1 bị thách thức.” Biển
Đông chiếm giữ địa lý chính trị tối ưu, là hành lang hàng hải
quan trọng về quân sự và kinh tế từ Thái Bình Dương sang Ấn Độ
Dương. Nếu Trung Cộng kiểm soát hành lang này sẽ triệt tiêu nền
kinh tế của Nhật vì không nhập được 70% dầu khí và không xuất
được 45% sản phẩm, Úc bị nghẽn không xuất cảng được 2/3 sản lượng
và không nhập được 1/2 nhu cầu các mặt, chưa kể đến sự mất mát
lớn lao của Hoa Kỳ và các nước Âu Châu cũng như các nước Đông Nam
Á, Nam Dương và Ấn Độ. Tất nhiên với sách lược “Xoay Trục về Á
Châu và Thái Bình Dương” Hoa Kỳ phải dùng biện pháp cứng rắn để
kềm chế tham vọng của Trung Cộng. Sự phát triển vũ khí tối tân
trên không, dưới biển, hỏa tiễn tầm xa, phát triển không gian
mạng của cả Trung Cộng và Hoa Kỳ sẽ tăng kích viễn ảnh Chiến
Tranh Thế Giới III.
Các nhà bình luận, chiến lược gia thế
giới cho rằng trong hiện tại cả Hoa Kỳ lẫn Trung Cộng đang tự kềm
chế để tránh chiến tranh. Nhưng một khi Trung Cộng còn mang tham
vọng vượt qua Hoa Kỳ để làm bá chủ thế giới, chiến tranh sẽ bùng
nổ. Riêng tôi, tôi nghĩ rằng một giải pháp hòa bình có thể được
Trung Cộng và Hoa Kỳ chấp nhận để cùng chung sống hòa bình lâu
dài và cùng nhau hiệp lực chống một kẻ thù chung nguy hiểm hơn...
Còn con đường tiến thoái của Tổ quốc
Việt Nam, tôi nghĩ, trong hiện tại nên cố gắng gia nhập Hiệp Ước
Đối Tác Kinh Tế Xuyên Thái Bình Dương, nhưng nên thận trọng trong
việc ký một hiệp ước liên minh quân sự với Hoa Kỳ. Một hiệp ước
như vậy tưởng như là một sinh lộ cho Việt Nam “Thoát Trung”,
nhưng tàng ẩn nguy cơ diệt vong nếu chiến tranh diễn ra. Lúc đó,
đất liền và thềm lục địa Việt Nam sẽ trở thành bãi chiến trường
chính, đẫm máu... sẽ bị hủy diệt. MỘT HIỆP ƯỚC LIÊN MINH QUÂN SỰ
AN TOÀN NHẤT VIỆT NAM CÓ THỂ KHÔNG NGẦN NGẠI GIA NHẬP LÀ “HIỆP
ƯỚC PACINTO” -The Pacific- Indian Oceans Treaty Organization-
giăng từ Hawaii đến Nam Hàn, Nhật Bản, Đài Loan, Phi Luật Tân,
Việt Nam, Mã lai, Nam Dương, Tân Tây Lan, Úc Đại Lợi, Miến Điện,
Sri-Lanka, Ấn Độ với hai chủ chốt là Hoa Kỳ và Anh... là quá đủ
đế bẻ gẫy mọi ý đồ làm chủ Biển Đông, Thái Bình Dương và Á Châu
của Trung Cộng. Nếu một tình huống như vậy diễn ra, việc Trung
Lập Việt Nam là việc bất khả. Tuy nhiên, gia nhập vào một liên
minh quân sự như vậy 5 năm, 10 năm, hay lâu hơn nữa thi cũng nên
nhớ rằng đó không phải là quốc sách trường tồn mà chỉ là giai
đoạn chiến thuật trong chiến lược trường kỳ bảo vệ và phát triển
tổ quốc Việt Nam. Chiến lược trường kỳ để đứng vững trước kẻ thù
to lớn Phương Bắc phải là quốc sách trường tồn, nền tảng vẫn là
gầy dựng cho được một thể chế dân chủ, trung lập và tự cường.
Nghĩa là phải có chính sách tạo thành một nề nếp đào tạo liên tục
các thế hệ tinh anh trẻ Việt Nam, có tình yêu nước tuyệt đối, có
đủ tài trí, đức độ, và hiểu biết lẽ tự lực tự cường để bảo vệ và
phát triển tổ quốc trong mọi thời đại. Đó là quốc sách trường
cữu.
Trên đây
là hai những lý do thúc đẩy tôi viết luận thuyết PACINTO và lập
thuyết “Một nước Việt Nam Dân chủ và Tự Cường”.
Chúng tôi sẽ trình bày chi tiết hơn...
VĂN NGUYÊN DƯỠNG
Trân
Châu Cảng,
Ngày 6/6/2018
Ghi Chú:
(1*)
BLOG http://www.vn-share-news.com, thêm section ENGLISH.
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
THIÊN SỨ MICAE - BỔN MẠNG SĐND VNCH
Chiều
Thu trên Biển Hồ
Hallstätter,
thuộc tỉnh
Salzkammergut, nước Áo, Âu châu.
Hồ nằm trên tọa độ 47°34′43″N
13°39′38″E.
Mặt nước hồ rộng
khoảng 8.55km², sâu 125m.
|
Hình nền: Mùa Thu Áo Quốc. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by vnd chuyển
Đăng ngày Thứ Ba,
November 14, 2017
Cập nhật hóa ngày
Thứ Tư, November 7, 2018
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang