Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Bút
ký
Chủ đề:
QH30–T4Đ
Tác giả:
Lỗ trí Thâm
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Mẹ tôi qua đời đã được hơn ba năm, cụ mất ở tuổi thọ 93. Năm
1946 bà mới ở tuổi 28 đã là góa phụ! Bố tôi bị Việt Minh giết
bằng cái vồ đập đất đánh vào gáy rồi đạp thẳng xuống hố, lấp đất.
Ông là đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng. Vì thấm nhuần đạo lý
Khổng Mạnh “tam tòng, tứ đức” nên mẹ tôi ở góa thờ chồng, nuôi
con cho đến khi tay xuôi mắt nhắm. Tôi năm nay đã qua cái tuổi
“bát thập cổ lai hy”, cũng đang chờ để đi gặp mẹ mình; chứ không
như “bác” Hồ ở tuổi già ước mơ được đi gặp cụ Mác cụ Lê!
Người ở lại thương nhớ người ra đi. Nhớ
bóng, nhớ dáng, nhớ lời, nhớ tiếng, nhớ tập tục, nhớ thói quen,
v.v. Phần tôi, tất nhiên cũng không tránh khỏi tâm trạng đó.
Những kỷ niệm, những lời mẹ dạy thì không sao kể xiết... tất
nhiên có cái nhớ cái quên! Thế nhưng đặc biệt câu nói mà mẹ tôi
lẩm bẩm suốt quãng đời bà: “tôi như con chim chết hụt” mỗi khi có
ai nhắc tới Việt Minh, Việt Cộng; thì anh em, vợ chồng, con cái,
cháu chắt chúng tôi không bao giờ quên được!
Tội nghiệp mẹ tôi, tại sao bà lại mang
nặng cái tâm trạng “kinh cung chi điểu”
[1] kia suốt đời bà? Chẳng lẽ
cái “đồng bào” Việt Minh, Việt Cộng kia là cái hoảng sợ đeo đẳng
nặng nhọc cho tới ngày bà nhắm mắt? Chồng bà yêu Nước, chống
“Tây”, bị “đồng bào” Việt Minh lấy vồ đập đất đánh vào gáy chôn
sống; Con bà thì được “đồng bào” Việt Cộng “thống nhất đất nước”
và cái “không có gì quý hơn độc lập tự do” cho đi “học tập cải
tạo” mút mùa nơi rừng thiêng nước độc miền Bắc! Thế là mẹ tôi
thân già còm cõi lại phải gánh gồng vượt ngàn dặm tiếp tế nuôi
con!
Bà có
người anh ruột, ly khai gia đình theo Việt Minh từ khi mới 15
tuổi thơ. Năm 1954, khi tiếp thu Hà Nội, ông vội vàng tìm em. Tay
mới vừa bắt, mặt mới vừa mừng thì lời nói đầu tiên đầy sợ sệt
hoảng hốt: “cô hãy tìm đường vào nam ngay!” Và rồi, sau
30/4/1975, lại một lần nữa, ông vội vào Nam tìm gặp em mình. Dù
đã hơn 20 năm sau, vẫn tâm trạng sợ sệt hoảng hốt như xưa, ông
nghẹn ngào: “sao không đi Mỹ? Khổ rồi!”
Gần trọn cuộc đời cống hiến cho “cách
mạng”, tới lúc gần đất xa trời, ông được “Bác” và “Đảng” chiếu
cố, cấp cho cái gốc cây đa ở đầu làng: Căng cái bạt, đóng cái kệ,
kê cái ghế... làm nghề “lao động là vinh quang”: Hớt tóc! Miệng
ông luôn lẩm bẩm: “bị lừa... bị lừa!” Và nỗi uất ức “bị lừa” này
khiến ông vẫn cứ lẩm bẩm câu ấy tới tận giây phút nhắm mắt lìa
trần.
Trong
suốt những năm dài “học tập cải tạo”, tôi được người của “đỉnh
cao trí tuệ” “giáo dục” rằng “khỉ là tổ tiên của loài người; Và
tiến trình văn hóa bắt đầu từ ‘đồ đá... đồ đồng...’ qua tới đồ
‘Độc’, đồ ‘Đểu’; Sau cùng, tiến lên ‘Tư Bản Xã Hội Chủ Nghĩa!’”.
Vậy thế nào là đồ “Độc”?
Tôi có người bác họ, trước ngày
30/4/1975 ông nhất định ở lại, không theo vợ con di tản. Ngày đó
ông đã ngoài sáu mươi, người hom hem như cây sậy, ông nghĩ ở lại
chắc Việt Cộng chẳng tính tới ông, vì suốt cuộc đời ông chỉ là
một anh thư ký quèn! Cái nghề cạo giấy, trói gà không chặt, lính
Việt Nam Cộng Hòa chê!
Thế nhưng ngày “đại thắng mùa xuân”,
lính “cụ Hồ” vào Sài Gòn chia nhau đóng quân rải rác trong nhà
dân. Nhà ông bác tôi cũng bị “chiếu cố”. Mười tên cán ngố “cơm
niêu, nước lọ” ở nơi rừng rú đã quen, nay vào thành phố văn minh,
không biết sử dụng những tiện nghi “hiện đại”! Ăn ở bừa bãi, bê
bết, bẩn thỉu, bụi bậm, v.v. Bác tôi không chịu được, ôn tồn đề
nghị họ luân phiên ở các nhà khác. Chúng không chịu. Ở lì! Bác
tôi khóa nước, tắt điện. Ông mắc võng nằm trước nhà nhìn chúng
sinh hoạt. Cuối cùng chúng chịu thua, dọn sang nhà hàng xóm. Khi
ra khỏi cổng nhà, tên đội trưởng quay lại nói: “Rồi mày sẽ biết
tay ông!”.
Vậy
thì “tay ông” ra sao?
Chị người làm sau ngày “giải phóng” đã
xin nghỉ, đột nhiên trở lại thăm ông. Sau những câu hỏi thăm tình
nghĩa, chị góp ý: “Bà và các cô cậu ra đi để lại ông một mình,
nay ông phải tự lo mà sống, con đề nghị ông mang cái bàn nhỏ và
cái máy đánh chữ ra để ở đầu ngõ, đánh máy thuê, may kiếm được
đồng vào đồng ra cho qua ngày”. Sau khi chị người làm giã từ, ông
suy nghĩ thấy có lý. Ngay hôm sau, người qua lại đã thấy ở đầu
ngõ xuất hiện một ông già đánh máy thuê.
Ngày qua ngày, tạm đủ sống. Ông nghĩ
tới chị người làm trung thành tốt ý mà mang ơn! Thế nhưng, chợt
một hôm chị người làm lại xuất hiện. Lần này chị mang đến cho ông
một tin mừng, chị đưa ra một xấp giấy đề cập tới những người làm
sở Mỹ trước kia sẽ được Mỹ can thiệp cho đi, đặc biệt với ông vì
có bà nhà đã làm sở Mỹ. Chị yêu cầu ông gấp rút đánh máy ra nhiều
bản để chị bán cho những người làm sở Mỹ còn kẹt lại, và hẹn hôm
sau chị trở lại.
Ông thức gần trắng đêm để đánh vội ra
nhiều bản, và chờ! Tội nghiệp, Thay vì chị người làm “trung
thành” thì là những tên công an áo vàng ập đến! Khám xét, hò
hét... Rồi cái gì xảy đến? Ông bị bắt vì tội “âm mưu phát tán tài
liệu phản động”. Còng tay, bỏ tù, giam ở nhà tù Phan đăng Lưu.
Sau đó đưa đi đâu không ai hay biết, vì không có thân nhân! Cuối
cùng, không bao giờ ông trở lại mái nhà xưa! Căn nhà của ông ít
lâu sau người ta thấy có người ở, lớn bé, nói tiếng Bắc giọng léo
lắt, lượn lẹo... khó nghe.
Hơn ba mươi năm qua, các con ông mòn
mỏi tìm xác cha mình nhưng vẫn biệt vô âm tín. Tóc họ đã hoa râm,
nhưng hàng năm vẫn thay phiên nhau về quê cũ, đứng trước cửa nhà
xưa, tay cầm nén nhang tưởng nhớ cha mình, hồi tưởng một thời thơ
ấu trong căn nhà êm ấm hạnh phúc của một thuở đất nước thanh bình
thịnh vượng! Phần tôi, trong âm thầm tận cùng ở đáy lòng, tôi ước
mơ ở tuổi già, tôi và họ quên được những hận thù để nhẹ nhàng ra
đi. Nhưng dễ gì! Tâm tư nào hóa giải được nỗi đau tình phụ tử,
lòng hiếu đễ?
Ngày giỗ mẹ tôi, đứa cháu lớn hỏi tôi rằng: “Cụ nội bị ‘kinh cung
chi điểu’, thế còn ông nội thì sao?”. Tôi không trả lời, vì ở
tuổi chúng chưa biết gì về hận thù! Thế nhưng câu hỏi đó đã đánh
thức trong tôi niềm đau ngủ yên của những năm tháng tù đày. Những
cái “Độc”, cái “Đểu” của người Bắc Việt Cộng ở những ngày xa xưa
nơi rừng thiêng nước độc mà tôi và các chiến hữu của tôi đã nhiều
lần chết hụt lạnh người, lại từ ký ức lũ lượt trở về.
Vậy thế nào là đồ “Đểu”?
Ngày 29/6/1976 trên bến Hạ Lý, Hải
Phòng, miền Bắc, trước mặt chúng tôi (những tù bại binh biệt xứ),
một tên bộ đội sau khi dựng chiếc Vespa màu xanh dương (cướp được
từ miền Nam), hắn chậm rãi mở cốp xe lấy ra một lá cờ vàng ba sọc
đỏ rồi từ từ hắn lau xe, hắn lau khắp “thân thể” cái xe. Cuối
cùng khi lau tới cái yên xe, hắn quay mặt nhìn chúng tôi... cười
đểu. Ngày đó tôi ghi nhận được nỗi đau đớn uất hận hằn lên khuôn
mặt những đồng đội tôi! Những ánh mắt đổ lửa của thân phận tù đày
ở ngày xa xưa đó, còn đeo đẳng tôi tới hôm nay!
Cũng chính ngày đó, trước khi chích
ngừa tù binh, tên bác sĩ Việt Cộng qua loa phóng thanh, hắn cao
giọng nói: “Đây là miền Bắc Xã Hội Chủ Nghĩa lành mạnh, các anh
sẽ được tiêm phòng để ngừa những bệnh truyền nhiễm của miền Nam ở
trong người các anh”. Thế nhưng mỉa mai thay, chỉ ít tháng sau,
Sài Gòn bị dịch ghẻ ngứa chưa từng có, tràn lan khắp nơi. Người
dân nhỏ to: “bộ đội và bọn thổ phỉ miền Bắc mang vào!”
Một tên cai tù trả lời “anh vào hỏi
nợn” sau khi một chiến hữu của tôi hỏi xin hắn cho nhặt những mẩu
đầu gân khoai mì mà lợn chê, nằm dưới hố rác đã nhiều ngày. Tôi
không sao quên được nét mặt thèm khát và thất vọng của người
chiến hữu ấy! Thật là đểu cáng và tàn nhẫn. Làm sao có thể tìm
được trên trái đất này một tên cai ngục đểu độc như tên cai tù
Việt Cộng kia?
“Ngụy quân, ngụy quyền”. Trong một lần
khác, một tên cai tù nhẹ nhàng kể với tôi: “Thời thơ ấu, hắn và
các bạn thường nghịch ngợm phá phách hàng xóm. Mỗi lần hư hỏng
như vậy, mẹ hắn thường chửi hắn ‘thằng ranh con nghịch như
ngụy’.” Sau đó hắn nhìn tôi cười đểu. Những cái đểu như đã có sẵn
bàn bạc khắp trong người dân thường cho đến kẻ lãnh đạo ở miền
Bắc!
Hồ chí
Minh khi còn sống, đánh chiếm miền Nam, ông xúi bọn Mặt Trận Giải
Phóng Miền Nam rằng: “Miền Nam đi trước, về sau”. Bọn Nguyễn hữu
Thọ, Nguyễn thị Bình, Trịnh đình Thảo, Trần văn Trà, v.v. tưởng
bở, cắm đầu đánh chí mạng! Sau 30/4/1975, Mặt Trận bị giải tán;
Lính nón tai bèo cùng những thủ lãnh lũ lượt lơ láo bị cho về
vườn. Bọn Bắc Việt Cộng Sản chính hiệu tràn vào. Cướp của, lấy
nhà, chia nhau chức trọng quyền cao; Tham ô, hủ hóa, ăn cắp, ăn
trộm, v.v. Mà “mức độ lẫn cường độ” tăng lên mãi tới ngày hôm
nay! Kết quả, dân chúng Nhật Bản phải phong cho Đảng và Nhà Nước
Việt Cộng cái tên là “Tập đoàn lãnh đạo ròi bọ!”
Trong cuộc cầu nguyện lặng lẽ cho hòa
bình của giáo dân ấp Thái Hà, đòi lại đất đai của giáo xứ bị cướp
cạn từ nhiều năm qua, đã bị con cháu “bác Hồ”, người “đầy tớ nhân
dân”, chơi đểu bằng trộn lẫn nước tiểu và phân người, rải rắc
vung vãi khắp nơi quanh nhà thờ. Cuối cùng, cả đức Tổng Giám Mục
Hà Nội lẫn giáo dân “chào thua”! Phần đất đó được bọn người “đểu”
biến vội qua đêm thành công viên.
Thiền sư Thích nhất Hạnh sau bao năm
lưu vong, được chúng cho phép về quê hương yêu dấu! Hí hửng dẫn
theo cả đoàn tăng ni Việt có, Tây có, rầm rộ cờ xúy diễn hành từ
Nam ra Bắc... Cầu siêu... Cầu hồn... Được chủ tịch nhà nước Việt
cộng Nguyễn minh Triết khen: “Thiền sư Thích nhất Hạnh và đoàn
tăng thân Làng Mai đã có những đóng góp tích cực vào hoạt động
tôn giáo ở Việt Nam...” Được lời như cởi tấm lòng, thiền sư vội
vàng bỏ ra cả triệu đô la Mỹ, lập dựng tu viện Bát Nhã ở Bảo Lộc,
tập trung được 400 tăng sĩ nam nữ. Mới chưa được bao lâu thì nhà
nước xem ra thấy không ổn, bèn cho bọn côn đồ lưu manh tới phá
phách, dùng bạo lực đánh đuổi tăng sĩ ra khỏi chùa! Dư luận đàm
tiếu thì Nhà Nước giải thích đó là hành động tự phát của nhân
dân!
Những đòn
“đểu, độc” không những chỉ ra chiêu với đối tượng không phải Cộng
sản, mà ngay trong đảng viên CS chính hiệu cũng chơi nhau sát
ván! Đơn cử như ông Hoàng minh Chính, viện trưởng viện triết học
Mác và Lenin của Hà Nội được Nhà nước cho qua Mỹ chữa bệnh. Ngày
28/9/2005, ông “Triết gia” Chính phát biểu tại trường đại học
Harvard về tính chất không thật của chủ nghĩa Marx và Engels,
đồng thời đề nghị dân chủ cho Việt Nam. Khi trở lại Sài Gòn, liền
bị một nhóm côn đồ đến trước cổng vứt phân người vào nhà ông. Ông
đưa đơn khiếu nại thì chính quyền giải thích đó là hành động tự
phát của nhân dân!
Gần đây nhất là vụ cướp đất trắng trợn
và tàn bạo. Khổ chủ là Đoàn văn Vươn, một cựu bộ đội ở huyện Tiên
Lãng Hải Phòng, bị nhà nước phá nhà, cướp đất công khai bằng bạo
lực. Bị đẩy vào đường cùng, Đoàn văn Vươn đã dùng súng và lựu đạn
để chống lại sự ức hiếp tàn bạo đó. Sự kiện chính những người
“cùng là Việt Cộng” chơi đểu lẫn nhau đã không thể che dấu được
dư luận trong nước và thế giới. Cuối cùng Đoàn văn Vươn bị bỏ tù,
nhà cửa bị giật sập, san bằng. Chủ tịch huyện tuyên bố: “nhân dân
bức xúc vì hành động sai trái của Đoàn văn Vươn nên kéo nhau tới
san bằng nhà của anh!”
Bây giờ, tháng này, ba mươi bảy năm về
trước, ngày 30/4/1975; ngày mà miền Nam thân yêu rơi vào tay bọn
Bắc Việt Cộng. Chúng cướp bóc, bỏ tù, trả thù, chém giết, đày
đọa... Đất nước gặp khổ nạn! Cả miền Nam tràn ngập máu lửa, hừng
hực hận thù. Kinh hoàng, hoảng hốt, người dân lành vô tội ùa nhau
băng rừng vượt biển chạy trốn! Người chết nổi, kẻ chết chìm, xác
người bồng bềnh phủ kín biển Đông! Người dân miền Nam gọi tháng
đó là “Tháng Tư Đen”!
Bản thân tôi giờ đây có được những
tháng năm cuối đời sống bình an, hạnh phúc, no ấm, an nhàn ở đất
nước tự do này là nhờ tấm lòng nhân ái của người chủ nhà, một dân
tộc hiếu khách, hiền hòa, thẳng thắn và... ngây ngô trước những
cái “độc”, cái “đểu” của kẻ khác! Cho nên, những năm tháng còn
lại ở cuối đời, tôi thường tự nhủ: “ơn hãy đền, nhưng thôi... oán
đừng trả!” Ơn cha ơn mẹ, ơn bạn bè thân thích; ơn đồng bào miền
Nam yêu thương, hiền hòa; ơn tổ quốc miền Nam tự do no ấm; ơn dân
tộc Mỹ cưu mang dung chứa... Tôi sẽ đền ơn họ bằng sự kiên định
lập trường ở biên giới Quốc–Cộng: Không chao đảo, bấp bênh, bội
bạc! Còn đối với đất nước của người nhà chủ này, tôi nghiêm khắc
với con cháu mình trong học hành, phát huy, tận tụy, nỗ lực, tận
tình đóng góp cho xứ sở mà chính mình đang dung thân!
“Oán không trả”! Những vết thương tuy
đã đóng vảy liền da qua nhiều năm tháng... Thế nhưng gặp phải
những ngày trở mưa trở gió, tránh sao không khỏi nhức nhối? Nhiều
bạn trẻ trách tôi rằng: “sao cứ thấy hình ông Hồ chí Minh thì
phát dị ứng khó chịu?” Tôi thừa nhận điều đó. Vì chính ông ta là
“cây cung” đã làm hoảng sợ mẹ tôi, bác tôi, bản thân tôi và những
người tôi thân thiết.
Từ biệt quê hương yêu dấu đã lâu năm,
lòng hoài cảm, tình hoài hương luôn chập chờn thôi thúc... nhưng
chưa một lần thực hiện được. Cũng chỉ tại cái “cây cung Hồ chí
Minh” kia in trên đồng tiền ở Việt Nam đang luân lưu trên tay
người dân mua bán, tiêu xài. Về thăm quê hương yêu dấu mà phải để
cả triệu đồng tiền giấy có hình ông Hồ trong túi quần túi áo của
mình qua ngày qua đêm thì... kinh hoàng quá! Thôi thì quê hương
yêu dấu dù có như chùm khế ngọt cũng đành nén lòng nhớ nhung...
Chờ đợi vậy!
Little Saigon
Lỗ trí Thâm
BKT ghi chú:
[1]
Bị một lần tởn/khiếp
tới già/suốt đời.
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Bui Nghia chuyển
Đăng ngày Chúa Nhật thứ 2 Phục Sinh, April 24, 2022
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang