Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tự
truyện
Chủ đề:
QH30–T4Đ
Tác giả:
Tống Viết Minh
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Tình
hình quân sự ngày càng có nhiều biến chuyển sau tết Ất Mão
(1975). Trong khi Đà Nẵng cũng như mặt trận vùng hỏa tuyến vẫn
không có triệu chứng gì xấu đi cả, tin thất thủ Ban Mê Thuột cùng
với việc triệt thoái các lực lượng quân sự theo Tỉnh Lộ 7B nối
liền các tỉnh cao nguyên trung phần Việt Nam: Pleiku, Kontum với
Phú Yên đã đem đến cho người dân bao nhiêu bàng hoàng sửng sốt.
Cuộc triệt thoái không được phối hợp
chặt chẽ và điều nghiên kỹ càng của cả một quân đoàn đi qua một
tỉnh lộ bỏ hoang từ nhiều năm được báo chí, các phương tiện
truyền thông trong và ngoài nước tường thuật như là một sự thất
bại nặng nề. Không những bao nhiêu lực lượng quân sự, mà còn cả
đoàn dân chúng chạy nạn kéo theo sau đoàn quân đã làm cho cuộc
triệt thoái rơi vào một tình trạng hỗn loạn gần như không người
chỉ huy.
Thay
vì chỉ kết thúc an toàn trong vài ngày nhờ vào yếu tố bất ngờ,
cuộc triệt thoái đã phải đương đầu với bao khó khăn chồng chất
trên một con đường hai trăm năm mươi cây số xuyên qua núi rừng
hiểm trở, trái với dự liệu đã kéo dài trong nhiều ngày. Binh sĩ
ngày càng quá mệt mỏi, mất hết tinh thần chiến đấu. Thêm vào đó,
sự bất mãn và sợ hãi đã tạo nên rối loạn ngay trong hàng ngũ của
chính mình, làm cho đoàn di tản trở thành miếng mồi ngon cho đối
phương trong các cuộc tập kích. Cộng quân đã phối hợp lực lượng
kịp thời để nắm lấy thời cơ thuận tiện gây tử vong nặng nề cho
lực lượng triệt thoái, đến nỗi nhiều đơn vị khi đến được Phú Yên
đã gặp rất nhiều khó khăn trong việc bổ sung quân số trước khi có
thể hoạt động trở lại.
Minh vẫn ngày hai buổi lái xe đến làm
việc tại Trung tâm Huấn luyện Hòa Cầm. Tình hình quân sự ở vùng
địa đầu giới tuyến không thấy có gì thay đổi theo sự hiểu biết
của Minh. Tuy vậy trên đường lái xe đi làm hoặc về, Minh nhận
thấy chuyển biến mỗi ngày mỗi khác.
Từ hạ tuần tháng ba trở đi, xe cộ ngày
càng tấp nập và lượng lưu thông ngày càng tăng. Hình như dân
chúng ở các tỉnh lân cận đã nhận thấy có một cái gì bất ổn; quá
lo lắng, sợ hãi, họ đã tìm về Đà Nẵng, nơi mà họ nghĩ sẽ được an
toàn hơn. Mỗi ngày Minh càng mỗi thấy tăng không những về số
lượng hành khách, xe cộ mà còn cả vận tốc nữa. Ai ai cũng như hối
hả, sợ sệt chờ đợi một biến chuyển không lường trước được sẽ xảy
đến.
Dầu cố
gắng giữ bình tĩnh cách mấy, Minh cũng không sao ngồi yên với
những gì chứng kiến hằng ngày. Để an toàn cho gia đình, khỏi phải
vướng mắc trong công việc, Minh quyết định sẽ lo vé máy bay cho
Hường và các con di chuyển về Sài Gòn trong khi Minh tiếp tục ở
lại chiến đấu. Phương tiện di chuyển duy nhất nối liền Đà Nẵng –
Sài Gòn vẫn là đường hàng không. Phòng bán vé hàng không Việt Nam
tại Đà Nẵng chen chân không lọt. Ai ai cũng hốt hoảng tìm cách
rời xa thành phố đang có nhiều biến động.
Sau một ngày dài mệt mỏi chầu chực với
ước vọng kiếm được cho Hường và các con mấy cái vé máy bay về Sài
gòn trôi qua không một kết quả, chiều của ngày thứ hai, khi Minh
cùng mọi người đang chen chúc trước các quày vé. Hàng không Việt
Nam thông báo cho biết thủ tướng Trần Thiện Khiêm ra lệnh ngưng
bán các chuyến bay ra khỏi Đà Nẵng, thay vào đó Hàng không Việt
Nam sẽ được chính phủ trưng dụng vào một chiến dịch di tản dân
chúng ra khỏi Đà Nẵng trong thời hạn ba mươi ngày.
Chính quyền không đề cập gì đến một
chiến dịch di tản cụ thể, trong khi người dân từ các tỉnh kế cận
vẫn tuôn về ngày càng đông, tạo nên một tình trạng bất ổn làm cho
người dân càng hoang mang hơn. Thông cáo di tản dân chúng đã
không đem lại một chút nào tin tưởng, an tâm trái lại còn làm cho
mọi người nghĩ đến cảnh rồi đây Đà Nẵng cũng sẽ bị bỏ rơi như các
thành phố khác, thông cáo chỉ là kế hoãn binh để chính quyền dùng
phương tiện hàng không Việt Nam di chuyển thân nhân và người nhà
ra khỏi Đà Nẵng.
Rời phòng bán vé cùng Hường trở về nhà,
Minh đang phân vân không biết phải tính toán như thế nào thì một
chiếc xe Jeep cảnh sát vội vã trờ tới đậu trước nhà. Một vài giây
thắc mắc và nhận định trôi qua, Minh đã nhanh chóng nhận ra người
chị họ cùng chồng trên xe. Anh phụ trách một chi khu cảnh sát ở
Huế. Minh bàng hoàng với những gì mắt mình chứng kiến: Mười tám
người lần lượt từ xe bước xuống! Làm sao ngần ấy người, trẻ con
và người lớn, từ ba bốn gia đình khác nhau có thể chen chúc trong
chỉ một chiếc xe như vậy! Trên khuôn mặt của mỗi người hiện rõ
nét hốt hoảng, sợ hãi và mệt mỏi.
Họ cho biết Huế đã mất và đã may mắn
nhanh chân thoát được. Dừng chân nghỉ ngơi trong chốc lát, kiếm
một chút gì lót bụng, tất cả lại cùng nhau lục đục lên đường. Họ
lại ra đi, không biết sẽ đi về đâu, có lẽ đi về con đường mà định
mệnh đã an bài cho họ. Bực tức và buồn chán đến cùng cực, Minh
cũng không buồn hỏi!
Mệt mỏi sau bao ngày chầu chực không
hiệu quả, bị cuốn hút vào trong cơn lốc lo âu, sợ hãi trước tình
trạng không những dân chúng mà ngay cả các quân nhân từ các tỉnh
kế cận xuất hiện ngày càng nhiều trên đường phố. Tình hình xoay
chiều quá nhanh, bao nhiêu biến chuyển dồn dập xảy đến, tâm trí
Minh rối loạn không còn biết phải xử trí như thế nào!
Nếu một mình, chỉ việc nhảy vào phi
trường, thế nào Minh cũng có cơ hội rời khỏi Đà Nẵng, nhưng với
cả một gia đình sáu người thì quả là hết sức khó khăn, nhất là
các con của Minh hẳn còn quá nhỏ dại, tuy Anh Tuấn bảy, Bích
Huyền sáu, nhưng Mộng Điệp chỉ ba và Anh Bình vừa mới lên hai!
Những người lính chiến đổ xô về từ các
tỉnh thất thủ, y phục xốc xếch, tinh thần sa sút, uất ức, mặt mũi
hốc hác, bàng hoàng, họ không biết phải làm gì trước tình thế,
lại nữa không người chỉ huy, đi lê thê lếch thếch trên đường phố
trông thật não lòng.
Đài phát thanh tiếng nói Hoa kỳ và BBC
tiếp tục đưa những tin tức ngày càng xấu làm nản lòng mọi người:
Sau Ban Mê Thuột đến Quảng Trị rồi đến Huế, Quảng Ngãi, Chu Lai,
Quảng Tín lần lượt rơi vào tay cộng quân.
Từ ngày ra Đà Nẵng đến nay, gia đình
Minh vẫn sống với người cậu vợ, vốn là một Linh mục cai quản một
họ đạo công giáo trong thành phố từ nhiều năm qua, gia đình Minh
rất quí mến ông, tuy vậy cuối cùng Minh quyết định cùng gia đình
ra đi sau khi những cố gắng thuyết phục ông rời Đà Nẵng bị thất
bại. Ông cương quyết không bỏ rơi giáo dân, đi tìm tự do và an
thân cho chính mình, mặc dầu ngoài việc coi sóc một giáo xứ, ông
còn là tuyên úy Trung đoàn 56, Sư đoàn 3 bộ binh, một đối tượng
có tầm cỡ của đối phương.
Trưa ngày thứ sáu 28 tháng 3, nhờ ông
chở cả gia đình xuống Thanh–Đức (Thanh Bồ – Đức Lợi) một họ đạo
nằm trên bờ tây sông Hàn, từ đó Minh thuê một chiếc thuyền máy
đưa gia đình ra khơi với hy vọng tìm phương tiện thoát thân bằng
đường biển. Khi thuyền rời bến, Minh nhìn thấy binh sĩ mang sắc
phục nhiều binh chủng khác nhau với súng ống đầy đủ ngồi trên các
ghềnh đá dọc bờ sông. Sau này nhiều người cho biết họ là những
cán binh Việt Cộng đội lốt quân nhân quân lực Việt Nam Cộng Hòa
để thực hiện những công tác đặc biệt giao phó.
Trên đường tiến đến gần cửa biển,
thuyền gặp hai ba chiếc xà lan thật lớn đang thả neo trên sông.
Xà lan nào cũng chứa đầy người. Xa hơn về phía cửa biển, một đoàn
ba, bốn chiếc tàu hải quân đang đậu ở đó. Người lái thuyền đưa cả
gia đình Minh đến một chiếc đầu tàu dùng để kéo xà lan đang đậu,
có lẽ vì boong tàu không cao dễ dàng hơn trong việc chuyển người.
Trên tàu dày đặc những người và người: đàn ông, đàn bà, trẻ em và
có cả quân nhân.
Sau khi trả tiền thù lao cho người chủ
thuyền, Minh nhảy vội lên tàu. Mặc dầu tàu chật như nêm, nhờ sự
tiếp tay của một vài người tốt bụng, Minh đã nhận được qua tay
người chủ thuyền và đem được lên tàu lần lượt từ Anh Tuấn, Bích
Huyền đến Mộng Điệp. Khi người chủ thuyền trao Anh Bình, Minh
chưa kịp ẵm thì đột nhiên chiếc đầu tàu kéo nổ máy. Sức quay của
chân vịt tạo thành những lớp sóng thật lớn. Chiếc thuyền bị chao
đảo và chồng chành thật mạnh vì nằm ngay vị trí chân vịt. Người
chủ thuyền, rất bình tĩnh, một tay giữ chặt Anh Bình, tay kia đẩy
mạnh chiếc thuyền ra xa và đã cứu được chiếc thuyền khỏi bị nạn,
Anh Bình khỏi bị rơi tõm xuống nước. Hường vẫn còn ở trên thuyền,
hoảng hốt chứng kiến những gì đang xảy ra, mà cũng chẳng có một
phản ứng gì được để cứu vãn tình thế!
Thật là một phen hú vía! Thấy tình hình
trên đầu tàu kéo quá xô bồ, không một chút an toàn. Hơn thế nữa,
Minh lại không chuẩn bị bất cứ một thức ăn hay uống gì cả. Sự
hiện diện của các tàu hải quân ở cửa biển làm Minh nảy sinh một ý
định khác: trở lại thông báo cho người cậu vợ linh mục, cho giáo
dân và những người quen biết để cùng tìm cách rời khỏi Đà Nẵng
bằng các tàu hải quân Việt Nam đang thả neo ở cửa biển. Thế là
chàng cùng Hường và các con trở lại bờ.
Người cậu vợ rất ngạc nhiên thấy gia
đình Minh về lại. Càng ngạc nhiên hơn khi ông được biết tất cả
giáo dân đã bỏ ông chỉ còn lại vỏn vẹn có hai gia đình mà thôi!
Hôm ấy là ngày thứ sáu tuần thánh. Sau
khi cố gắng hoàn tất nghi thức ngày lễ một cách vắn tắt, hoàng
hôn bắt đầu buông xuống, gia đình Minh lần này chuẩn bị đầy đủ
hơn, cùng người cậu và hai gia đình còn lại lên xe, một của Minh,
một của người cậu trở lại Thanh Đức, với dự định sẽ cùng nhau
thuê thuyền ra khơi tìm các tàu hải quân để trốn khỏi thành phố.
Không an toàn khi phải di chuyển vào
lúc trời tối nhất là trên sông, trên biển, vả lại cũng đã quá mệt
mỏi, Minh và tất cả đã quyết định ngủ qua đêm tại nhà một người
quen ở cạnh bờ sông Hàn, sáng hôm sau sẽ dậy sớm để thực hiện
chương trình như dự tính.
Đêm hôm đó, khi bóng tối đã hoàn toàn
bao phủ xuống thành phố, máy bay trực thăng bay vần vũ trên bầu
trời loan báo việc đặt quân trấn và thị xã Đà Nẵng dưới quyền chỉ
huy của một sĩ quan cao cấp một binh chủng nổi tiếng trong quân
lực. Tiếng loa phóng thanh từ chiếc máy bay trong nỗ lực cuối
cùng, nhằm đem lại niềm tin và trật tự cho dân chúng, không làm
sao át được tiếng nổ chát chúa của hàng loạt đạn pháo kích cộng
quân đang trút như mưa xuống phi trường Đà Nẵng.
Những trái hỏa tiễn rơi trong đêm
trường thanh vắng nghe thật rợn người làm Minh xót xa nghĩ đến
thân phận Đà Nẵng, bao nhiêu chiến sĩ, công nhân viên chức và
người dân trong đó có Minh, gia đình cùng với bao người thân yêu
đang bị bỏ rơi lại trên thành phố đang giẫy chết này. Sáng hôm
sau khi thức dậy, bóng dáng những chiếc xà lan, đầu tàu kéo cũng
như các tàu hải quân cũng đã biến mất khỏi cửa biển Đà Nẵng đem
theo bao nhiêu kỳ vọng không những của Minh mà còn của biết bao
người!
Nhìn
cửa biển trống vắng lòng Minh tan nát! Minh, gia đình và bao
nhiêu người đã bị bỏ rơi lại đằng sau! Minh không tin, nhưng đó
là sự thật. Thế là bao nhiêu hy vọng thoát khỏi Đà Nẵng đã tiêu
tan thành mây thành khói! Trong một nỗ lực cuối cùng, Minh chở
hai gia đình tháp tùng và người cậu chở gia đình Minh. Tất cả
cùng cố gắng đi về hướng Nam vượt qua cầu “De Lattre” để qua bãi
biển Mỹ Khê hay Sơn Trà, tìm cách rời xa thành phố đang trong cơn
hấp hối.
Thật
đau lòng khi nhìn thấy bao cảnh vật xé nát tim gan lúc Minh lái
xe đi qua những con đường chính của thành phố. Chiếc tàu Trường
Thành, mới chiều hôm trước vẫn thả neo ở ngay cạnh bờ sông cũng
đã rời xa thành phố từ bao giờ! Khói đen đang bốc lên từ tòa lãnh
sự Mỹ. Dọc đường nón sắt, quần áo, quân cụ, giày cao cổ của quân
nhân xen lẫn với mũ nón, túi xách, vali, guốc dép của người dân
chạy loạn vương vãi khắp nơi.
Đường phố thật vắng. Không còn bóng
dáng người thường dân. Các thương bệnh binh không thuốc men,
không ai coi sóc chăm nom, nhận thức được thực trạng phủ phàng đã
cố gắng tự cứu lấy mình, kẻ chống nạng, người xe lăn, những người
khác trong nỗ lực “người mù cõng người què” họ kéo nhau đi từng
đoàn, nơi này hai, chỗ khác ba, áo quần lôi thôi lếch thếch, hốt
hoảng, tuyệt vọng; họ lê lết trên các đường phố dọc theo bờ sông
Hàn, không biết đi về đâu!
Trước hãng Bia Larue, một số người mang
quân phục biệt động quân và thường dân đang tranh dành khuân
những thùng bia ra khỏi hãng. Họ hành động không khác gì trong
cơn điên loạn! Vỏ chai và thùng nằm la liệt khắp nơi, trên đường,
vỉa hè, lối đi. Nhìn thấy cảnh hỗn loạn, Minh không những ngậm
ngùi xót thương, mà còn sợ cho sự an toàn của chính bản thân và
toàn thể gia đình, mặc dầu vẫn mang bộ quân phục với vũ khí đạn
dược đầy đủ.
Con đường đi qua cầu “De Lattre” bị phong tỏa. Minh và người cậu
phải lái xe trở về lại Thanh–Đức (Thanh Bồ–Đức Lợi). Không còn
biết giúp gì được cho hai gia đình tháp tùng, Minh và người cậu
vợ quyết định để cho họ tự xoay xở, rồi cùng lấy thuyền vượt sông
Hàn đến Nhượng Nghiã, một xứ đạo nằm bên bờ sông của sông Hàn, hy
vọng sẽ tiếp tục kiếm được phương tiện rời thành phố. Khi tất cả
lên đến được trên bờ phía đông, ngoảnh mặt nhìn lại, chính mắt
Minh chứng kiến cảnh chiếc máy bay phản lực cuối cùng rời khỏi Đà
Nẵng, khoảng trưa ngày 29 tháng Ba năm 1975. Chiếc máy bay cất
cánh một cách khác thường! Nhìn chiếc phi cơ rời thành phố mà
lòng Minh thấy xót xa, nuối tiếc!
Tối hôm đó cùng với tin thành phố Đà
Nẵng thất thủ đài BBC cho biết những chi tiết thật đau lòng về
chuyến bay: Trong cơn hỗn loạn, không giữ được trật tự, số người
ùa lên quá đông, không những quá trọng tải, mà máy bay còn không
thể đóng cửa được. Vì an toàn của cả chuyến bay, người phi công
đã phải dùng những chuyển động ít khi sử dụng, cố tình làm cho số
người thặng dư trên máy bay, đeo ở cánh hoặc cửa bị sức gió cuốn
hút ra ngoài. Số người rơi từ phi cơ xuống đất khá nhiều trước
khi phi công có thể đóng được cửa, để lái chiếc phi cơ về đến Sài
Gòn an toàn. Quả là một chuyện thật đau lòng ngoài sức tưởng
tượng của con người!
Một người giáo dân quen biết trong vùng
hứa sẽ giúp tìm thuyền để thuê chở cả gia đình Minh và người cậu
về Cam Ranh hay Sài Gòn, đem lại một tia hy vọng cho Minh đang mò
mẫm trong con đường hầm đầy tăm tối và không lối thoát.
Đêm 29 tháng Ba, nhằm ngày thứ bảy tuần
thánh, khá yên tĩnh. Không tiếng pháo kích. Trong đêm trường vắng
lặng, Minh có thể nghe thấy nhịp tim mình đập và hơi thở mình
phập phồng trông ngóng. Mãi đến sáng hôm sau, người nhận sứ mệnh
giao phó mới trở lại cùng với tin làm bao nhiêu hy vọng cuối cùng
vỡ tan thành từng mảnh: Không tìm kiếm được bất cứ một ghe thuyền
nào! Tất cả mọi cố gắng để được rời thành phố đều trở thành tuyệt
vọng. Minh thở dài não nuột!
Sau khi vứt đi những gì liên quan đến
binh nghiệp, thận trọng đào hố chôn khẩu súng Colt 45 trong tiếc
nuối, tìm một chỗ để cất dấu khẩu P38 bé xíu, quà tặng người anh
cả trong xót xa, Minh mặc vào người bộ áo quần dân sự trong rã
rời, đắng cay và chua xót!
Nghĩ đến số phận dành sẵn cho người
chiến bại, sợ rằng sẽ bị hành quyết, vì là sĩ quan quân lực Việt
Nam Cộng Hòa, Minh tâm sự và giao phó mọi việc trong gia đình nhờ
người cậu trông coi, nếu lỡ có chuyện gì xảy ra cho bản thân, vì
nghĩ rằng không ai lại hãm hại một người chân tu như người cậu
vợ. Minh cũng dặn dò Hường, ôm hôn các con và gửi đến những lời
tâm huyết, ít nhất là cho Anh Tuấn và Bích Huyền. Thế rồi cùng
người cậu, gia đình Minh lại lên thuyền vượt sông Hàn trở về lại
Đà Nẵng, đối diện với một tương lai không biết đi về đâu đang chờ
đón!
Hôm ấy là
ngày Chúa Nhật Lễ Phục Sinh, 30 tháng Ba năm 1975.
Tống Viết Minh
(Trích “Một Thời Để
Nhớ”)
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Tran Marie chuyển
Đăng ngày Thứ Ba, March 28,
2022
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang