Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Truyện
ngắn
Chủ đề:
Bạn cũ Trường xưa
Tác giả:
Phạm Tín An Ninh
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Bạn về gõ cửa đêm thâu
Ta nghe âm vọng nỗi sầu xa xưa
Sau 3 năm ngồi bên nhau ở trường Võ Tánh, chia
tay, mỗi thằng đi mỗi ngã. Anh bạn của tôi thì vào trường luật,
còn tôi thì vào trường... lính. Khi còn đi học, bạn chăm chỉ và
giỏi hơn tôi nhiều. 2 đứa học trò nghèo, cùng ở quê lên tỉnh học,
nên dễ dàng là bạn tâm giao. Con nhà nghèo nhưng tôi lại mê
truyện Françoise Sagan và thơ Xuân Diệu, biết yêu hơi sớm, nên
thay vì theo bạn học thêm vài ba chữ, thì tôi lại đắm say ngụp
lặn trong một cuộc tình kiểu Aimez–vous Brahms. Mà dường như tình
yêu nó làm cho người ta đổi thay ghê gớm lắm.
Không biết tình yêu ngày ấy có làm tôi
“...chết ở trong lòng một ít, và... lạc lối giữa u sầu mù mịt”
như ông Xuân Diệu hay không, nhưng nó đã biến tôi thành một thằng
lính. Để cho có vẻ lãng mạn một chút, tôi tự cho mình là một
thằng lính đa tình.
Trước ngày chia tay, anh bạn dẫn tôi về
thăm quê. Từ Nha Trang chúng tôi đi xe đò Khánh Hòa, một trong
những chiếc xe Renault sơn màu nửa xanh nửa trắng, quen thuộc một
thời với đám học trò từ Vạn Giã, Ninh Hòa vào Nha Trang đi học.
Qua khỏi đèo Rọ Tượng một lúc, xuống xe, anh bạn đèo tôi trên xe
đạp về làng. Đi dọc theo con đường đất, hai bên bát ngát những
ruộng đồng, hun hút phía xa xa, nằm ẩn hiện sau ngôi đình với bao
tàn cây cổ thụ, là làng Tam Ích. Cái làng quê đẹp như bức tranh
vẽ và thần tiên như trong cổ tích. Ngay cả cái tên của bạn tôi
cũng mộc mạc dễ thương như cánh đồng tôi vừa mới đi qua. Làng Tam
Ích hiền hòa, êm đềm với tiếng gió đồng nội hòa cùng tiếng sóng
rì rào tạo thành khúc nhạc huyền dịu của đất trời, và hun đúc cái
hiền lành thánh thiện trong tâm hồn người bạn thời niên thiếu của
tôi... Vậy mà chiến tranh cũng đã một thời cướp đi cái yên bình
đầm ấm của ngôi làng. Ăn cơm chiều sớm, hai đứa chúng tôi chào
những người thân, rồi đèo nhau ra phố Ninh Hòa ngủ qua đêm. Nếu
chiến tranh ngày đó đã cướp mất của tôi bao nhiêu điều tốt đẹp,
thì trong đó có cả cái lần tôi không được ở lại làng Tam Ích một
đêm để cùng anh bạn tôi kéo giành bắt cá, đi câu, và ngồi ngắm
ánh trăng lung linh trên đầm Nha Phu trong một vùng biển trời
tĩnh mịch.
Ra
khỏi quân trường tôi về Nha Trang tìm thăm bạn tôi một lần. Hai
thằng rủ nhau ra tiệm sách Vĩnh An Thành, bên cạnh chợ Đầm, vờ
mua sách để ngắm dung nhan cô chủ mà anh bạn của tôi đã từng say
đắm một thời. Rồi kể từ đó biền biệt xa nhau. Chiến trường ngày
càng ác liệt, những thằng lính đánh giặc như tôi chỉ biết có súng
đạn và mục tiêu trước mặt. Phố phường, bạn cũ trường xưa, là một
quá khứ thật dễ thương, nhưng cũng đành phải mờ nhạt phía sau
lưng.
10 năm
sau, khi cùng đơn vị sống chết từng phút từng giờ với chiến
trường Kontum trong “mùa hè đỏ lửa”, bất ngờ tôi gặp lại người
bạn làng Tam Ích ngày xưa. Anh sinh viên trường luật ngày nào bây
giờ chỉ huy 1 đơn vị CTCT, vừa từ Ban Mê Thuột lên hỗ trợ tinh
thần cho đơn vị tôi. Bộ “chinh y” chưa làm cho chàng ta thay đổi.
Vẫn nét mặt thư sinh cùng nụ cười hiền hậu ngày xưa. 2 thằng ôm
nhau trong lúc đạn pháo trên các chiến xa T–54 thi nhau bắn vào
căn cứ. Nửa khuya hôm ấy đơn vị tôi nhận lệnh di chuyển bất ngờ.
Vậy là tâm tình chưa cạn thì 2 thằng đã phải lặng lẽ chia tay,
chưa kịp bắt chước nhà thơ Nguyễn Bắc Sơn nắm tay hò hẹn:
“Mai ta đánh trận may còn sống
Về ghé Pleiku* phá phách chơi...
Chia
sớt nỗi sầu cùng gái điếm
Đốt tiền mua
vội một ngày vui”.
Chiến tranh đã làm bạn bè tan tác,
nhưng đến khi kết thúc lại còn tan tác bi thảm hơn. Sau tháng
4/1975, cái cổng trại “cải tạo” của nhà nước đã làm chia ly biết
bao tình cảm con người. Bạn bè kẻ chết ở đầu non, người mỏi mòn
góc bể. Người bạn làng Tam Ích bây giờ chỉ còn mờ mịt đâu đó
trong ký ức hiu hắt của tôi.
Vậy mà Trời thương, hai thằng còn sống,
mang tấm thân tàn tạ về với gia đình. Tội nghiệp, nghe tin tôi
về, anh bạn trọn tình, tìm đến nhà ông bà già vợ tôi ở Ninh Hòa
thăm thằng bạn cũ. Lúc ấy “chính quyền Cách Mạng” không cho phép
“tạm trú” với vợ con ở Ninh Hòa, tôi phải về sống với 1 bà cô
ngoài quê nội, nên bạn tôi không gặp. (Ô hay, chẳng lẽ trên quê
hương tôi đã từng có cái cảnh “gần trong gang tấc mà xa nghìn
trùng” như thế hay sao?)
Đúng 30 năm sau, từ những phương trời
xa lạ, bất ngờ đọc trang web Ninh Hòa, bạn nhắn tìm tôi. Kẻ bên
bắc Mỹ, người tận bắc Âu xa tít mịt mù, vậy mà tôi có cảm giác 2
thằng đang ngồi bên nhau như lúc còn ở trường Võ Tánh. Trên đầu
dây điện thoại, hai đứa nhắc nhau bao kỷ niệm vui buồn về bạn cũ
trường xưa, cùng chia sẻ mọi nỗi niềm oan khổ từ những ngày “vì
sao mà ra nông nỗi...”
Tội nghiệp người bạn một thời học hành
chăm chỉ và khi làm lính thì vẫn hiền lành như một thư sinh, vậy
mà hơn 6 năm tù đày trở về phải bỏ cái làng quê Tam Ích với biết
bao dấu chân suốt một thời thơ ấu, dắt vợ con lang thang vào vùng
kinh tế mới Đồng Bò. Chỉ 2 năm sau, rừng thiêng nước độc đã cướp
mất của bạn tôi người vợ hiền chung thủy cùng đứa con trai mà
ngày cha vào tù nó chưa gọi được tiếng Ba.
Bạn chôn cất vợ con và chôn theo nỗi
đau đớn tột cùng của đời mình, rồi trốn khỏi vùng kinh tế mới,
đem 2 đứa con còn lại gởi cho ông bà ngoại, đi làm bất cứ công
việc gì để nuôi 2 đứa con thơ. Con gà trống nuôi con trong túng
quẫn, mà mỗi ngày vẫn nhìn con mình như nhìn về phía chân trời để
có thêm nghị lực đứng lên và đi tới.
Cám ơn Trời Đất đã mở ra một lối thoát
cho những người cuối đường bất hạnh. Mang 2 đứa con đến Mỹ khi
chúng vừa mới lớn, bạn tôi, con gà trống bây giờ lại nuôi con
trên xứ lạ quê người. Bằng tấm lòng độ lượng của người cha, cuối
cùng 2 đứa con thơ cũng đến được chân trời. Ngày 2 đứa con thực
sự trưởng thành, như những con chim bắt đầu tự bay lên bằng chính
đôi cánh vững chải của mình, người bạn của tôi tiễn cô con gái
lớn theo chồng rồi trở về sống một mình với nỗi hiu quạnh của
tuổi 60.
2 năm
trước đó, nhờ một nhịp cầu tao ngộ, bạn tôi gặp một cô “con gái”
Long Khánh. “Hai người sống giữa cô đơn, hình như nàng có nỗi
buồn giống... tôi” nên trở thành đôi bạn tâm giao. Nhưng chờ lo
cho con cái lớn khôn và có cuộc sống riêng, mới đây hai người mới
về chung một mái nhà, cùng san sẻ nỗi niềm và cho nhau một chút
hơi ấm ở chặng tuổi cuối đời.
Gặp nhau trên điện thoại viễn liên, tôi
nghe được một giọng nói phúc hậu hiền lành. Chị cho tôi biết anh
bạn tôi có thú làm thơ, đọc sách, còn chị thì thích trồng và chăm
sóc mấy cành hoa. Tôi đùa: “thì chị cũng đang mỗi ngày chăm sóc
một cành hoa Tam Ích đẹp đẽ đó thôi. Tôi hy vọng qua những ngày
thiếu nắng thiếu nước, bây giờ cây hoa ấy được trồng trên vùng
đất màu mỡ hiền hòa Long Khánh, chắc nó sẽ còn cho chị và cho đời
nhiều bông hoa lắm đó”. Chị cười như cùng đồng cảm với những điều
tôi vừa mới nói.
Tôi không biết nhiều về Long Khánh,
ngoại trừ một lần duy nhất tôi ghé lại đây. Đó là cái ngày tôi ra
khỏi trại tù Z 30C. 6 thằng tù vừa được thả, tiều tụy xanh xao,
trong túi chỉ có vài đồng bạc, đứng giữa rừng buổi trưa nắng
cháy, đón xe quá giang về Sài Gòn, nơi có gia đình của 3 trong 6
đứa. Anh tài xế xe lam còn nặng tình với những thằng lính cũ,
không đón khách mà dành cả chiếc xe chở bọn tôi về bến xe Long
Khánh và hứa sẽ tìm xe quen gởi chúng tôi về tận Sài gòn. Thời
buổi ấy, muốn mua được cái vé xe đò có khi phải nằm ở bến chờ đợi
mấy hôm, huống hồ gì chuyện quá giang. Đến bến xe Long Khánh,
không còn chiếc xe nào, anh tài xế xe lam tốt bụng mời chúng tôi
vào quán ăn, đãi một chầu phở. Trong quán cũng có mấy người đàn
bà, hình như buôn bán gần đâu đó. Biết chúng tôi là tù cải tạo
mới thả, họ bàn với chủ quán, thay vì mang phở ra, dọn cho 6
thằng chúng tôi một bữa cơm thịnh soạn. Chúng tôi từ chối, nhưng
các bà nhất định không cho, bảo chúng tôi đừng phụ lòng của người
Long Khánh. Khi xe đến, các bà gặp tài xế, trả tiền xe trước cho
chúng tôi. Đã vậy, khi về đến Sài Gòn, anh tài xế còn chuyển lại
cho chúng tôi một gói tiền của các bà gởi biếu. Chúng tôi cầm
tiền mà muốn rơi nước mắt. Trong cái cảnh bi thương giữa một thời
nhá nhem tình nghĩa, vẫn còn có biết bao tấm lòng như người Long
Khánh.
Bây giờ
bất ngờ gặp chị, nghe lại giọng nói hiền từ của một người Long
Khánh, tôi bất giác nhớ lại chuyện xưa, và càng trân trọng chị.
Chị đã mở rộng tấm lòng, đón nhận một người bạn đời trên tuổi 60,
mà những vết thương trong tâm hồn vẫn chưa lành được. Xin cám ơn
Long Khánh, đã sản sinh cho đời những người con gái giàu tình
nặng nghĩa. Tôi mừng cho người bạn thật dễ thương, hiền hậu của
tôi, tìm được vòng tay, an ủi, vỗ về, sau những đớn đau mất mát
tưởng chừng chẳng còn gì lớn lao hơn.
Ngồi nghe bạn kể về cuộc đời gió mưa
của bạn, lòng tôi lắng xuống bâng khuâng. Tôi chợt nhớ một vài kỷ
niệm thuở 2 thằng còn đi học và cảm nhận có đôi điều dường như đã
vận vào số phận của bạn, của tôi.
Ngay từ lúc còn là học sinh trung học,
2 thằng đã nghèo mà lại còn mang cái bệnh “đa sầu đa cảm”. Tôi
thì mồ côi mẹ từ lúc mới lên 3, cả một thời ấu thơ và lớn lên
trong vòng tay tình nghĩa của cô, dì, ông bà nội ngoại, nên lòng
sớm biết u sầu. Vậy mà tôi không mau nước mắt và biết làm thơ
buồn như người bạn làng Tam Ích. Mới học đệ ngũ đệ tứ gì đó mà
dám đứng ra thành lập một “thi văn đoàn” giữa đất Ninh Hòa. Cái
xứ mà dường như bây giờ mỗi người là một nhà thơ.
(Tôi còn nhớ lúc tôi còn nhỏ, ba tôi
thường bảo, những đứa trẻ sớm có tính đa sầu đa cảm thì sau này
cuộc đời sẽ buồn ghê lắm. Ông kể cho tôi nghe chuyện nữ thi sĩ
Tiết Đào bên Tàu. Lúc còn rất nhỏ, nàng đã thích thơ phú. Cụ thân
sinh là một nhà thơ nổi tiếng, nên bà thường theo cha để học làm
thơ. Năm Tiết Đào mới lên 10, trong một hôm mưa bão, thân phụ
nhìn ra ngoài trời thấy một cây ngô đồng bị gió mưa tơi tả, bảo
Tiết Đào làm mấy câu thơ vịnh thử, nàng liền ứng khẩu:
“Chi nghênh nam bắc điểu
Diệp tống vãng lai phong”.
Thân phụ nàng nghe xong thất sắc, vừa
phục tài nhưng vừa lo lắng điều không may cho hậu vận của con
mình. Sau này, khi một triều đại Trung Hoa thay đổi, gia đình bị
tù đày khổ ải, nên Tiết Đào đã có thời phải đi làm kỹ nữ. Từ ấy
trong văn chương mới có câu “Gió lá cành chim”, “đón đưa ai gió
lá chim cành”.
Chuyện ba tôi kể đã trên 50 năm, không
biết tôi nhớ sai hay đúng, nhưng nó vẫn cứ nằm mãi trong lòng, để
liên tưởng tới miền Nam nước tôi, sau tháng 4/1975 đã có biết bao
nhiêu nàng Tiết Đào như thế!).
*******
Năm đệ tam, trong giờ Việt văn của thầy
Nguyễn Văn Châu, lúc cả lớp tranh luận về bài Tổng Vịnh Truyện
Kiều, bạn và tôi đứng về phía Chu Mạnh Trinh hết lời bênh vực
nàng Kiều:
“Giả sử ngay khi trước Liêu Dương cách trở, duyên chàng Kim đừng
dở việc ma chay, quan lại công bằng, án viên ngoại tỏ ngay tình
oan uổng, thì đâu đến nỗi son phấn mấy năm lưu lạc, đem thân cho
thiên hạ mua cười, mà chắc rằng biên thùy một cõi nghênh ngang ai
xui được anh hùng cởi giáp...”
“... Ta cũng nòi tình thương người đồng
điệu.....”
Năm
đệ nhất, 2 thằng lại cùng say mê những giờ văn học sử Pháp của
Thầy Cung Giủ Nguyên, nên đã nắn nót viết vào tập và đọc đi đọc
lại đến độ thuộc lòng mấy bài thơ lãng mạn của Lamartine,
Chateaubriand, Jacques Prévert, Victor Hugo.
Cuối cùng thì cuộc đời 2 thằng, dù là
nam nhi, nhưng nào có khác gì thân phận trôi nổi của nàng Kiều:
“Một phen thay đổi sơn hà...
Mảnh thân chiếc lá biết là về đâu...”
(Nguyễn Du)
Hay của những chàng thủy thủ mịt mờ
trong Oceano Nox:
“Où sont–ils les marins sombrés dans
les nuits noires?....
O flots! Que vous
savez de lugubres histories!”
(Victor Hugo)
Gặp lại tôi sau gần 40 năm, trong những
lời tâm tình, bạn cho tôi biết thêm một điều nuối tiếc:
“Tớ buồn quá, vì không tìm thấy cái
làng Tam Ích nhỏ nhoi, nghèo mà quá đỗi thân thương của mình trên
tấm bản đồ Ninh Hòa... Cái làng mà ngày xưa bạn có lần về thăm
với mình rồi vội vã ra đi ấy!”
Tôi nghe lòng lắng xuống và thấy thương
người bạn hiền thời thơ ấu rồi thương cả chính mình. Thế hệ chúng
tôi sao bỗng dưng phải mất đi bao nhiêu điều quí giá, để cuối
cùng lại trở thành “khúc ruột ngàn dặm” của quê hương?
Hình ảnh bạn tôi cùng cái Làng Tam Ích ngày xưa như đang nhạt
nhòa trong nước mắt. Im lặng giây lát, tôi lấy lại bình tĩnh, rồi
cười với bạn:
“Thì bạn hãy viết thật nhiều về cái làng của bạn đi, để bạn
có cái cảm giác của một Từ Thức trở về nơi xưa chốn cũ, tìm lại
dấu vết một thời cùng những ‘hang động tuổi thơ’. Còn với mình,
cái ‘làng Tam Ích dù không trọn một ngày’ ấy vẫn mãi mãi còn lại
trong lòng như 1 kỷ niệm dễ thương”.
Một ngày lập đông
Phạm Tín An Ninh
* Trong nguyên tác của Nguyễn Bắc Sơn: “Về ghé Sông Mao phá phách
chơi.”
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by CATHY chuyển
Đăng ngày Thứ Bảy, March 4,
2023
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang