Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Truyện
Ngắn
Chủ đề:
Người Quả phụ
Tác giả:
Phạm Tín An Ninh
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Thực ra cây cầu không có tên, nhưng có lẽ vì nó bắc ngang qua
đoạn quanh co và đẹp nhất của dòng sông Nitelva, nên người dân ở
địa phương này thường gọi như thế. Đây là đoạn cuối cùng của một
con sông lớn trước khi đổ ra biển.
Sau khi các con đã trưởng thành và có
cuộc sống riêng, vợ chồng tôi bán ngôi nhà rộng cũng nằm bên bờ
sông này, nhưng ở tận vùng Fjerdingby xa xôi, về đây mua căn nhà
nhỏ trong một khu apartment [chung cư], nằm khá xa thành phố. Chỉ
làm việc thêm một năm là đến tuổi về hưu. Sống trong vùng ngoại ô
tĩnh mịch này, cả ngày không biết làm gì, ngoài cái thú đọc sách
và đi bộ. Ở đây khá lâu rồi, nhưng lúc ấy còn phải đi làm, mùa hè
thì bận bịu chuyện sửa sang nhà cửa, mùa đông thì chỉ nằm nhà
hoặc bay sang Mỹ thăm con nhân dịp nghỉ lễ Phục Sinh, nên chúng
tôi không biết gần bên nhà có một con đường đi bộ đẹp và thơ mộng
đến như thế. Sau này, khi đã về hưu, nhờ ông bà láng giềng người
bản xứ giới thiệu và rủ đi bộ, chúng tôi mới biết.
Con đường tráng nhựa đen bóng, lớn như
những tỉnh lộ trong vùng, nhưng đặc biệt chỉ dành riêng cho người
đi bách bộ. Chạy quanh co xuyên qua cánh rừng đầy những loại hoa
dọc theo bờ sông Nitelva, đến khúc sông đẹp nhất, là một chiếc
cầu đúc bắc qua để tiếp tục đến một khu rừng khác, nhưng bây giờ
là cánh rừng thông với những hàng cây cao, thẳng tắp, che kín cả
mặt trời.
Chúng tôi khởi sự đi bộ vào đầu mùa hè, bởi mùa đông con đường và
cả khu rừng ngập đầy tuyết, dòng sông đóng cứng băng, chẳng ai có
hứng thú. Chúng tôi thường đi vào buổi chiều tàn, vắng người. Mùa
hè Bắc Âu trời tối muộn. Có những hôm, đến 12 giờ đêm mà vẫn còn
chói chang ánh nắng mặt trời. Hôm đầu tiên và suốt cả tuần sau
đó, khi đến giữa cây cầu, chúng tôi thấy một người đàn bà Á châu.
Không biết bà đã đến đây từ lúc nào, nhưng khi vừa bước lên cầu
chúng tôi đã thấy bà đứng bất động bên thành cầu nhìn đăm đăm
xuống dòng sông, như không hề để ý đến mọi điều chung quanh. Muốn
chào, hỏi thăm bà đôi câu, nhưng không dám, ngại làm mất đi cái
không khí yên tĩnh riêng tư của bà.
Mãi một hôm, trên đường trở về, khi đến
gần đầu cầu, trời đang nắng bỗng đổ xuống một cơn mưa rào, chúng
tôi chạy vào trú mưa dưới một tàn cây khá lớn, bất ngờ gặp bà
đứng sẵn ở đó. Bà gật đầu chào và kéo bà xã tôi đứng sát bên bà
để tránh mưa tạt. Rất vui khi biết bà là người đồng hương, đến
định cư ở nước Bắc Âu xa xôi này từ khá lâu, năm 1979. Nhìn mái
tóc bạc, tôi đoán bà cao tuổi hơn mình. Trông bà hiền lành, nói
năng từ tốn, thỉnh thoảng nở nụ cười, nhưng khó tìm được nét vui
nào, bởi đôi mắt thật buồn. Và không ngờ cơn mưa rào hôm ấy đã
đưa chúng tôi trở thành những người bạn già đồng hương sống đời
lưu lạc.
Bà
cho biết, bởi hoàn cảnh đặc biệt, nên hơn hai mươi năm nay, từ
khi dọn về sống ở vùng này, bà không quen biết ai. Bà muốn sống
yên lặng một mình trong căn nhà nhỏ, riêng tư với những nỗi niềm
quá lớn của mình.
– Tôi vẫn muốn giữ lấy quá khứ buồn bã
cho riêng mình, cứ sợ chia sẻ với người khác thì mình sẽ chẳng
còn lại cái gì hết.
Lần đầu tiên, khi đến thăm chúng tôi bà
tâm tình như thế.
Tôi nói như để an ủi bà:
– Người ta thường nói lời phân ưu, chia
buồn. Nhưng thực ra cũng chỉ là một cách an ủi thôi. Chứ làm sao
có thể chia sớt được nỗi buồn của người khác. Tuy nhiên, khi nói
ra cũng là cách để làm nhẹ bớt những gì cứ đè nặng trong lòng
mình đi chị ạ.
Sau đó bà thường đến chơi và càng lúc
càng thân tình với vợ chồng tôi. Bả bảo thấy rất hợp với chúng
tôi, vì có cùng những hoàn cảnh, hoạn nạn, và giờ thì đang cùng
“sống ở cuối trời quên lãng” tận xứ Bắc Âu này. Sau lần vợ chồng
tôi gật đầu trước đề nghị khi bà muốn được kết nghĩa chị em, bà
ôm chầm lấy chúng tôi nước mắt sụt sùi, bảo là bà chỉ có một cô
con gái, nhưng phải sống ở trong Trung Tâm dành cho người bị bệnh
tâm thần, mất trí nhớ.
Trung Tâm này khá lớn nằm trong khu vực
chúng tôi đang ở. Chúng tôi đã từng đi qua lại rất nhiều lần,
nhưng không biết đó là một trung tâm như thế.
Chiều hôm sau, chúng tôi cùng đi bộ
theo bà đến thăm cô con gái. Không ngờ đây là một cơ sở rất qui
mô, có nhiều bác sĩ đảm trách. Cứ một bác sĩ phụ trách mười bệnh
nhân, và mỗi bệnh nhân có riêng một y tá trực tiếp săn sóc, dẫn
dắt đi chơi, mỗi năm có hai lần đi du lịch nước ngoài tùy theo
hoàn cảnh, xuất xứ của mỗi người.
Cô bé trông khá xinh, nhưng đôi mắt
thất thường. Có khi đang thật buồn, bất ngờ trở nên giận dữ.
Dường như đôi lúc vẫn còn nhận ra mẹ, nên sau vài phút xa lạ, lại
ôm vai và vuốt tóc mẹ. Khi mới đến, cả bà và vợ chồng tôi đã được
dặn dò, bất cứ tình huống nào cũng luôn nở nụ cười. Có khi cô bé
cũng cười với chúng tôi, nhưng bất chợt sa sầm nét mặt. Tôi nhìn
thấy bà cười, nhưng có dòng lệ ứa ra từ khóe mắt. Trên đường về,
thấy bà trầm ngâm, chúng tôi tìm cách đi sau bà, tôn trọng sự yên
lặng và những suy nghĩ trong đầu bà. Đã có hẹn trước, chúng tôi
mời bà về nhà dùng cơm tối với chúng tôi. Biết sở thích của bà,
bà xã tôi đã cuốn sẵn chả giò, về nhà chỉ chiên lên là xong.
Tối hôm ấy, bà ở lại với chúng tôi, và
ngồi kể lại cuộc đời mình. Bà cho biết đây là lần đầu và cũng là
lần duy nhất bà kể những điều này, bởi bà xem chúng tôi như người
thân trong nhà, và có thể sau này có đôi điều cần thiết phải nhờ
đến chúng tôi.
Trước ngày mất nước, chồng bà là thiếu
tá Pháo Binh thuộc Quân Đoàn I. Ông là bạn học cùng lớp với ông
anh cả của bà. Hai người làm đám cưới ở Nam Định, lúc bà vừa đúng
18 tuổi. Sau đó theo về sống cùng nhà chồng, ở thành phố Hải
Phòng. Nhưng chỉ mấy tháng sau thì xảy ra chuyện Hiệp Định
Genève, chia đôi đất nước, bà theo gia đình chồng xuống tàu há
mồm di cư vào Nam, trong lúc cả gia đình của bà vẫn còn kẹt lại.
Ngoài cha mẹ, bà chỉ có một người anh duy nhất, là bạn cùng học ở
Hà nội với ông chồng.
Vào miền Nam, chỉ có một lần duy nhất
bà nhận được tấm bưu thiếp của gia đình với đôi dòng vắn tắt, rồi
bặt tin luôn. Nuốt bao đau đớn vào lòng, bà cố quên đi nỗi buồn
chia ly, để cùng gia đình chồng tìm kế sinh nhai trên vùng đất
mới, giúp chồng tiếp tục con đường học vấn dở dang.
Sau ba năm đại học, ông đi dạy toán ở
một vài trường trung học tư thục để lo cho gia đình. Khi ấy ông
bà cũng vừa có đứa con trai đầu lòng. Mấy năm sau, do tình hình
chiến tranh ngày một leo thang, ông theo lệnh gọi nhập ngũ vào
Trường Sĩ Quan Thủ Đức. Sau đó được chọn theo học Ngành Pháo
Binh.
Ra
trường, ông lần lượt chuyển về phục vụ tại các đơn vị Pháo Binh
của các Sư Đoàn Thuộc Vùng 3, rồi Vùng 2. Khi thăng cấp thiếu tá,
đang làm Tiểu đoàn phó, ông được chọn sang Mỹ học một khóa chuyên
môn. Về nước, được bổ nhiệm về Trường Pháo Binh Dục Mỹ để đảm
trách huấn luyện. Năm 1971, tình hình chiến sự Vùng 1 trở nên
quyết liệt, sau những thiệt hại nặng nề trong cuộc hành quân Hạ
Lào Lam Sơn 719, ông được chọn bổ sung cho Pháo Binh Quân Đoàn I.
Bà và ba đứa con di chuyển theo ông, thuê căn nhà nhỏ ở thành phố
Đà Nẵng. Bà lo việc học hành cho mấy đứa nhỏ, ông ở đơn vị, mỗi
tuần một đôi lần về thăm. Có khi bận hành quân cả tháng mới về
được một lần rồi vội vã ra đi.
Đầu tháng ba 1975, thấy tình hình có
nhiều dấu hiệu bất lợi, ông thu xếp cho vợ và ba đứa con về lại
Sài gòn, tá túc tạm thời với gia đình người em, một sĩ quan Hải
quân, đang làm việc ở Hải Quân Công Xưởng. Hôm đưa ra phi cơ, ông
ôm bà và hai đứa con thật chặt, không muốn rời nhau. Không ai ngờ
đó lại là dấu hiệu của chia ly.
Ngày 11/3 Ban Mê Thuột thất thủ. Cuộc
di tản từ Pleiku theo tỉnh lộ 7B đã kết thúc số phận của các đơn
vị thuộc Quân Đoàn II, từng tạo nên những chiến công hiển hách,
đặc biệt đã đánh tan mấy Sư đoàn Cộng quân của Mặt Trận B3, để
giữ vững Kontum và Tây Nguyên trong suốt mùa hè khói lửa 1972.
Rồi tiếp theo là lệnh bỏ Quân Đoàn I của vị tướng lừng danh Ngô
Quang Trưởng. Không mấy ai tin là ông sẽ bỏ vùng đất địa đầu từng
thắm đẫm máu đào của hàng vạn sinh linh, đồng đội, một thời trấn
giữ, giành lại từng tấc đất, để dựng cờ trên Cổ Thành Quảng Trị.
Vậy mà cuối cùng đã bỏ, bỏ thật. Mọi người, từ quân tới dân đều
bàng hoàng, hụt hẫng. Kế hoạch di tản và sự phối hợp, chỉ huy tồi
tệ của một số tướng lãnh, đã tạo nên một cuộc bại trận đớn đau bi
phẫn nhất trong lịch sử chiến tranh. Một cuộc lui quân đẫm máu
trên bờ biển Thuận An, mà có những người lính gọi đó là pháp
trường cát. Một vùng biển máu ngập những xác người, cả dân và đủ
mọi sắc lính. Một quân đoàn với ba sư đoàn bộ binh thiện chiến,
nhiều Liên Đoàn Biệt Động Quân dạn dày lửa đạn, những Thiết Đoàn
Kỵ Binh với hỏa lực hùng mạnh, hai Lữ Đoàn TQLC của một đơn vị
Tổng Trừ Bị vang danh, từng tạo những chiến tích lẫy lừng ở các
trận chiến Mậu Thân, Quảng Trị, giờ phải lâm vào bước đường cùng,
không còn lối thoát, không còn đạn để có thể chiến đấu. Nhiều
người tự sát trong tiếng cười ngạo nghễ, nhiều người bị giết khi
vừa bắn đi viên đạn cuối cùng, và tất cả số còn lại bị bắt bởi
những tên du kích!
Chồng bà là một trong hàng vạn người
lính bất hạnh ấy. Vị thiếu tá Pháo Binh đã phải phá hủy hết các
khẩu pháo, từng bao nhiêu năm sống chết với mình, để chỉ tự vệ
bằng cây súng cá nhân M16, rồi cuối cùng cũng phải vất đi để
chiến đấu với sóng biển, với số phận, khi tìm cách bơi ra những
chiến hạm Hải Quân xa lắc lư tít ngoài khơi, dưới xích sắt của
những chiến xa M113 cũng lội sóng đi tìm sinh lộ.
Ở Sài gòn, mỗi ngày bà ra bến Bạch Đằng
hỏi tin tức chồng mình, nhờ người em Hải quân liên lạc các chiến
hạm công tác tại Vùng I, nhưng tất cả đều không thể cho bà một
tin tức nào cụ thể. Trong cái mất mát quá lớn và khủng khiếp ấy,
cá nhân một ông thiếu tá, chồng bà, trở nên vô cùng nhỏ nhoi hơn
bất cứ lúc nào.
Cuối cùng thì Cộng quân cũng vào đến
Sài gòn. Người Mỹ có lệnh phải ra đi. Những người làm việc cho Mỹ
hoặc có liên quan đến họ bắt đầu được ưu tiên di tản khỏi Việt
nam bằng phi cơ. Tướng Lê Minh Đảo chỉ huy Sư Đoàn 18BB của ông
cùng các lực lượng Thiết Giáp, Nhảy Dù, Biệt Động Quân, Địa
Phương Quân tăng phái, đã chiến đấu thật dũng mãnh, kiêu hùng,
ngăn chặn hằng mấy quân đoàn địch tràn vào Long Khánh, làm cả thế
giới ngạc nhiên, thán phục. Nhưng cũng chỉ cầm chân được hơn một
tuần. Địch quân tránh đụng độ, mở đường sang hướng Biên Hòa để
bao vây, uy hiếp Sài gòn.
Tối ngày 29/4, người em chồng từ Hải
Quân Công Xưởng mang xe về nhà đón vợ con xuống tàu. Anh thúc hối
bà và ba đứa con theo ông di tản. Nhưng bà nhất quyết cùng con ở
lại chờ chồng.
Miền Nam mất vào tay cộng sản đã hơn
một tháng, chồng bà vẫn biệt tăm. Bà nghĩ chắc ông đã bị bắt, lặn
lội ra Đà Nẵng tìm. Vào các trại tù nhốt những sĩ quan miền Nam
hỏi thăm, nhưng không ai biết chồng bà. Bà tìm đến nhà anh tài xế
cũ, nhờ đưa bà đi thăm một số đồng đội của chồng. Cuối cùng, một
anh trung sĩ, người lính thân cận của ông, cho biết là ông đã
chết trên biển. Chính anh cùng bơi ra với ông và nhìn thấy ông bị
thương do pháo kích của địch, rồi chìm xuống biển, nhưng anh
không thể nào cứu được, bởi lúc ấy, anh cũng không nghĩ là mình
có thể sống sót. Bà nhờ anh trung sĩ đưa bà ra bờ biển và chỉ nơi
nào ngoài khơi mà ông đã ra đi. Nhìn những cánh hải âu lượn lờ
trên mặt nước, tưởng như hóa thân của chồng mình, bà quỳ xuống
khóc nức nở.
Cuộc đổi đời đã dìm bà và cả ba đứa con xuống vực thẳm. Nhà người
em bị tịch thu, kẻ chiến thắng đuổi mẹ con bà không chỉ ra khỏi
nhà mà ra khỏi cả Sài gòn. Bà dắt con chạy lên Long Khánh tá túc
nhà một người bạn thân có vườn cây ăn trái, rồi mua lại một căn
nhà tranh bên cạnh để sống qua ngày. Nhờ người bạn giúp, bà theo
buôn bán trái cây. Cả ba đứa con phải nghỉ học, ở nhà khai khẩn
thêm đất hoang, làm vườn, trồng khoai, trồng sắn.
Lo âu khốn khổ chất chồng, bà không còn
biết đến thời gian. Mấy năm sau, nhờ những thùng quà của người em
chồng từ Mỹ gởi về, mẹ con bà có được chút vốn làm ăn, cậu con
trai lớn tập tành buôn bán thuốc tây. Bớt khổ một chút.
Nhưng đùng một cái, khi cậu con trai
đầu lòng này vừa tròn 22 tuổi, thì trận chiến biên giới với
Campuchia bùng nổ, Trung cộng đòi dạy cho Việt nam một bài học.
Thằng bé bị bắt “thi hành nghĩa vụ quân sự”. Bà phản đối, nêu lý
do nó là con của “ngụy” sao các ông tin mà cho vào “Quân Đội Nhân
Dân”. Nhưng họ vẫn nhất quyết cưỡng bách, bảo là đáng lẽ phải đi
cả hai anh em, như vậy là nhân đạo lắm rồi. Cũng có thể thằng bé
phải thế chỗ cho một thằng nào có tiền bạc chạy chọt hoặc quen
biết bà con với đám chính quyền. Năn nỉ xin xỏ không được, bà
khóc hết nước mắt tiễn con đi, làm lính cho kẻ thù. Bà đau lòng
lắm, chỉ cầu mong Trời Phật và vong linh chồng bà phù hộ cho nó.
Nhưng chỉ ba tháng sau, bà nhận giấy báo, đứa con trai đầu lòng
của bà đã trở thành liệt sĩ! Không biết xác thân nằm ở nơi nào.
Người ta chỉ mang đến cho bà tấm bằng Tổ Quốc Ghi Công. Họ vừa ra
khỏi nhà, bà xé nát rồi cho vào bếp lửa. Trong ngôi nhà tranh bé
nhỏ giờ có hai cái bàn thờ, leo lét ánh đèn dầu.
Giữa năm 1979, muốn cướp tài sản của
những người gốc Hoa, cộng sản bày ra chương trình “Ra đi bán
chính thức”. Nhờ người em chồng ở Mỹ, liên lạc được một người
lính thuộc cấp thân cận cũ gốc người Hoa Chợ Lớn, nhờ ứng vàng và
lo lót cho công an, làm giấy tờ giả cho ba mẹ con bà ra đi. Ông
sẽ hoàn tiền lại khi họ đến Mỹ.
Chiếc thuyền mới đóng, lớn và chắc
chắn, nhưng mới ra khơi hai ngày thì hỏng máy. Hai người thợ máy
đi theo lại chẳng biết gì về máy tàu, nên cuối cùng chiếc thuyền
như thả trôi giữa biển mênh mông, mang theo số mạng của hơn hai
trăm người. Tất cả chỉ còn cầu nguyện để mong có một chiếc tàu
nào cứu thoát. Nhưng bao nhiêu lời cầu xin vẫn chưa làm động lòng
Trời. Chiếc thuyền trôi dạt trên hai mươi ngày, lương thực đã
cạn, và vì do không điều khiển được nên bị sóng đánh, nhiều lúc
như muốn chìm. Nước tràn vào trong khoang. Mặc dù không còn sức,
nhưng tất cả đàn ông đều được gọi lên trên mạn thuyền để thay
nhau tát nước. Một số tháo những thanh gỗ trên đài chỉ huy, thu
góp tối đa áo quần, chăn mền mang theo, đốt lên tạo thành cột
khói để làm dấu hiệu cấp cứu. Con thuyền nghiêng ngả, những đợt
sóng lớn đánh vào mạn thuyền, kéo theo một số người xuống biển
khơi. Sinh mạng con người lúc này thật nhỏ nhoi. Ai cũng nghĩ rồi
sẽ đến lượt mình. Khi tàu sắp chìm, thì Thượng Đế xuất hiện. Một
chiếc tàu chở dầu của Vương quốc Na–uy đã cứu họ.
Thủy thủ đoàn trên tàu rất nhân đạo,
tận tình cứu vớt. Họ thi nhau dùng dây đu xuống chiếc thuyền bị
nạn, ưu tiên cõng theo con nít và đàn bà, và giúp những người đàn
ông cố bám theo chiếc thang lưới, leo lên tàu. Ngay trên sàn tàu,
họ sắp xếp đàn ông vào một khu, đàn bà một khu khác, rồi dùng vòi
nước ngọt “tưới” lên những người bị nạn để giúp họ tỉnh táo lại,
và phát quần áo mới để thay.
Sau khi hoàn hồn, không tìm thấy cậu
con trai, bà và cô con gái chia nhau đi tìm nhưng không ai biết.
Cả anh lính Hải quân đã giúp mẹ con bà cũng mất tích. Bà và cô
con gái ôm nhau khóc nức nở, đòi nhảy xuống biển. Vị thuyền
trưởng người Na–uy biết chuyện nên lệnh cho cô bác sĩ đưa mẹ con
bà vào phòng y tế săn sóc và bảo đảm sự an toàn. Bà bảo, nếu
không nghĩ đến cô con gái út, bà đã nhảy xuống biển.
Đến định cư ở Na–uy, một đất nước giàu
có và đầy lòng nhân đạo, bà và cô con gái được ưu tiên sắp xếp
cho định cư ngay tại thủ đô Oslo. Mẹ con được cấp một căn nhà mới
khang trang, hai phòng ngủ có đầy đủ tiện nghi. Cô con gái được
theo học một trường Gymnas (trung học đệ nhị cấp) sau một khóa
học ngôn ngữ Na–uy dành cho người ngoại quốc.
Bà cũng được theo học tại một trường
Voksengymnas (trung học dành cho người lớn). Hằng tháng, với số
tiền trợ cấp đặc biệt, hai mẹ con không những sống đầy đủ mà còn
dành dụm trả dần cho vợ người lính Hải quân tiền tương ứng với số
vàng mà người em chồng của bà đã hứa với người thuộc cấp cũ.
Người lính ân nhân này cũng đã chết trên biển cùng với đứa con
trai của bà.
Cuộc sống tưởng chừng yên ả, sau khi những đau thương mất mát tạm
lắng xuống, thì cô con gái trở nên kỳ lạ, thất thường sau những
cơn ác mộng. Ở nhà, ban ngày chỉ đóng cửa nằm suốt trong phòng,
ban đêm thức giấc la hét thất thanh. Bà phải đưa con tới trường,
nhưng nhiều hôm cô bé la hét và vất tung sách vở chạy ra ngoài.
Được đưa vào bệnh viện tâm thần chữa trị, nhưng không thuyên
giảm. Bệnh tình ngày càng trầm trọng, mất dần trí nhớ. Thấy cô bé
không còn làm chủ được mình, có thể nguy hại đến bản thân và cho
người khác, Hội đồng Y khoa quyết định đưa vào một trung tâm đặc
biệt dành chữa trị lâu dài. Bà không chịu, khóc lóc xin cho cô
con gái được sống ở nhà, bà sẽ tự chăm sóc cho con, nhưng mọi
người đều khuyên bà nên để cho cháu vào sống ở Trung tâm, để có
thể chữa trị và giúp bà tự lo được cho mình. Hơn nữa, mỗi tuần
Trung Tâm sẽ sắp xếp cho bà hai lần vào thăm và ở lại với con
khoảng ba tiếng đồng hồ.
Đúng vào lúc này bà lại nhận thêm một
tin buồn. Người em chồng vừa qua đời ở Mỹ do một tai nạn giao
thông. Bà không thể sang dự tang lễ được.
Trung Tâm đặc biệt này nằm trong khu
vực chúng tôi đang ở. Bà thì đã dọn về đây từ lâu rồi, sau ngày
cô con gái được đưa vào sống ở đây.
Từ ngày thân tình bà luôn đi bộ với
chúng tôi mỗi ngày trên con đường dọc theo bờ sông Nitelva. Nhưng
khi đến giữa cầu bà dừng lại, đứng ở đó, chờ chúng tôi trở lại sẽ
cùng về với nhau. Điều đặc biệt, thành chiếc cầu này là một tấm
lưới bằng sắt sơn màu xám, trên đó có treo rất nhiều ổ khóa, cả
mấy trăm chiếc. Có những cái nằm riêng một mình, có những cái
khóa chung vào với hai, ba cái khác. Trên nhiều ổ khóa có khắc
tên hai người, một số có tên nhiều người. Đã mấy lần, vợ chồng
tôi tò mò, đứng lại xem và đọc vài cái tên trên ấy. Chỉ toàn tên
người bản xứ, Na–uy. Tôi nghĩ có lẽ đây là nơi hẹn hò, thề non
hẹn biển của những cặp tình nhân.
Buổi chiều, sau ngày đến thăm cô con
gái và ở lại nhà chúng tôi, khi cùng thả bộ tới giữa cầu, bà dắt
tay chúng tôi đến một chiếc ổ khóa lớn, nằm riêng rẽ trên tấm
lưới thành cầu. Cái khóa đồng, có khắc đậm năm cái tên. Mặt trước
là tên của vợ chồng bà, mặt sau là tên của ba đứa con. Cũng lần
đầu tiên, bà giải thích vì sao bà thường đứng một mình giữa thành
cầu. Vì cứ mỗi lần nhìn xuống dòng sông phía dưới, bà đều nhìn
thấy hiện lên khuôn mặt của chồng bà và hai đứa con trai. Trong
gợn sóng, bà vẫn thấy họ mỉm cười với bà. Chính điều này đã giúp
bà có nghị lực để sống tới hôm nay.
Mỗi năm, bà làm giỗ chung cho ba cha
con vào giữa tháng ba, vì họ đều mất trong cùng tháng ba. Tháng
ba, Bắc Âu đang mùa Đông, trời rất lạnh. Khoảng thời gian này, vợ
chồng tôi lại thường sang Mỹ thăm ba cô con gái, và cũng để trốn
lạnh. Nhưng năm nay, chúng tôi ở lại Na–uy, theo mong muốn của
bà. Ước nguyện của bà là sau kỳ giỗ này bà theo chúng tôi sang
Tây Ban Nha, sống trên đảo nào đó vài hôm, để bà có thể mỗi ngày
ngồi trước biển, nhìn ra đại dương xa xăm, hy vọng sẽ thấy được
quê hương và hình ảnh chồng và hai đứa con trai. Bà nghĩ như thế.
Trong ngày giỗ, bà khẩn khoản nhờ chúng
tôi, trước khi trao một tờ giấy ủy quyền, để khi bà qua đời, thân
xác được thiêu, và chúng tôi sẽ mang tro cốt rải xuống dòng sông
Nitelva, nơi mà bà thường đứng trên cầu, mỗi buổi chiều hè, nhìn
xuống đó. Bà cũng dặn dò, nhờ chúng tôi bỏ hết mấy tấm ảnh của
gia đình, chồng và các con vào quan tài để cùng thiêu với bà.
Bà đi với vợ chồng tôi sang Mallorca,
một hòn đảo du lịch nổi tiếng của Tây Ban Nha và ở đây hai tuần.
Bà bắt buộc chúng tôi phải để cho bà bao trọn chuyến du lịch này.
Theo ước muốn của bà, mỗi ngày sau khi ăn điểm tâm xong, vợ chồng
tôi đưa bà ra biển, nơi có mô đất cao, được làm thành một vườn
hoa rất đẹp. Bà ngồi trên ghế đá có dù che, nhìn ra một vùng biển
trời mênh mông trước mặt. Không biết bà có nhìn thấy được chồng
con và quê hương ở phía cuối chân trời? Chúng tôi ngại, không dám
hỏi bà.
Sau
chuyến đi khoảng ba tháng, bà bị bệnh. Chúng tôi đến thăm. Bà
than mệt, thỉnh thoảng lên cơn ho. Tôi nghĩ bà chỉ cảm nhẹ, hoặc
mùa này nhiều người bị dị ứng phấn hoa, nên đi mua thuốc cho bà.
Khi mang cốc nước đến cho bà uống thuốc, tôi vỗ vai, an ủi:
– “Bà chị đã
trên 80 rồi, tất nhiên sức khỏe có yếu đi, hay mệt, hoặc có thể
bị dị ứng phấn hoa, chứ chẳng có chuyện gì đâu.”
Bà xã tôi dọn dẹp nhà cửa, nấu cơm, làm
ít món ăn bà thích và dặn dò bà phải nghỉ ngơi, không được làm
việc gì, nhà cửa, cơm nước để chúng tôi lo.
Không ngờ bệnh tình ngày một nặng hơn.
Chúng tôi đưa bà vào bệnh viện. Sau khi khám và làm xét nghiệm,
bác sĩ cho biết trong phổi bà có nước và có cả vi khuẩn. Tình
trạng khá nguy hiểm.
Hơn một tuần sau bà mất. Là người thân
duy nhất được bà ghi vào hồ sơ, chúng tôi được bệnh viện báo tin.
Với tờ ủy quyền, chúng tôi nhận đứng ra lo việc an táng cho bà.
Tôi đến Trung Tâm Tâm Thần, nơi cô con gái của bà ở, báo tin cho
Bác sĩ Giám Đốc, và yêu cầu vào ngày tang lễ, xin Trung Tâm đưa
cô con gái đến dự và chịu tang cho mẹ, theo truyền thống Việt
nam.
Đám tang
tổ chức ngay tại nhà quàn bệnh viện. Ngoài vợ chồng tôi, chỉ có
cô con gái của bà và hai người của Trung Tâm Tâm Thần. Tôi cũng
mời một vị sư đến niệm kinh cho bà. Cô con gái ăn mặc đúng phong
cách, một bộ vest đen mới toanh, theo sự hướng dẫn của cô ý tá,
cùng chúng tôi quỳ xuống trước linh cữu của bà. Không biết cô gái
có biết điều gì đang xảy ra hay không? Chỉ im lặng cúi đầu. Khi
vị sư choàng chiếc khăn tang vào đầu, cô đưa tay giật xuống.
Không biết cô ý tá nói nhỏ với cô điều gì, rồi lấy chiếc khăn
tang quấn lại trên đầu. Lần này cô bé yên lặng, chống hai tay cúi
xuống.
Đúng
một trăm ngày, theo ước nguyện của bà, cũng là đầu tháng bảy, mùa
hè, chúng tôi mang tro của bà ra rải giữa dòng sông, dưới chiếc
cầu Nitelva, cùng lúc với những cánh hoa hồng trắng được bỏ
xuống. Loại hoa bà thường cắm trên bàn thờ chồng và hai đứa con
trai của bà. Hôm ấy trời đang thật đẹp, bỗng bất chợt một cơn mưa
rào. Mùa hè ở đây thường như thế. Vợ chồng tôi vội vàng chạy vào
dưới tàn cây ở phía đầu cầu trú mưa, nơi mà lần đầu tiên chúng
tôi đã thực sự gặp bà, để rồi sau đó trở thành thân thiết.
Chiều hôm
sau, khi đi bách bộ, tôi mang theo chai Zip, chùi sạch và đánh
bóng lại ổ khóa của bà treo trên thành cầu, lấp lánh năm cái tên
được khắc sâu trên ấy. Nước mắt tôi bỗng trào ra, khi nhớ tới bà
và câu chuyện đau thương của gia đình bà. Cả một gia đình đều là
nạn nhân của cộng sản. Một chế độ man rợ đã gây nên biết bao chia
lìa tang tóc cho đồng bào và hủy hoại cả quê hương đất nước. Và
đó cũng chỉ là một trong muôn vàn thảm cảnh sau ngày CS cưỡng
chiếm miền Nam, xích xiềng cả nước.
Từ hôm ấy, cứ mỗi lần đi bộ, chúng tôi
đều dừng lại giữa cây cầu Nitelva này khoảng vài phút, đứng yên
lặng bên thành cầu, tưởng niệm vợ chồng và hai đứa con trai bất
hạnh của bà.
Bệnh viện cũng đã trao lại cho chúng tôi những di vật của bà.
Trong đó ngoài hai thẻ ngân hàng và mấy tấm ảnh còn có lá thư
ngắn viết cho vợ chồng tôi và tờ di chúc viết bằng tiếng Việt. Bà
nhờ tôi dịch ra tiếng Na–uy hai bản. nhờ bệnh viện chứng nhận.
Một bản trao lại cho kommune (văn phòng thị xã), một bản cho
Trung Tâm Tâm Thần. Trong đó bà quyết định, tất cả tài sản, căn
nhà và tiền bạc trong ngân hàng, bà xin hiến tặng cho Trung Tâm,
nơi nuôi nấng chăm sóc con gái của bà. Bà chỉ có một yêu cầu, khi
nào con gái bà qua đời, xin cho thiêu xác và rải tro xuống dòng
sông, giữa cầu Nitelva, để cháu được đoàn tụ với bố mẹ và hai
anh, khi theo dòng sông chảy ra biển và cùng nhau trôi dạt về lại
quê nhà.
Phạm Tín An Ninh
Nguồn: https://phamtinanninh.com/?p=3608
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by ĐÌNH BỬU TRẦN chuyển
Đăng ngày Thứ Năm, July 20,
2023
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang