Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tùy
Bút
Chủ đề:
Huynh Đệ Chi Binh trong cùng
khốn
Tác giả:
Chu Kim Long
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Những chiếc Mô–tô–lô–va chạy theo từng nhóm trên những con
đường sống trâu và ổ gà, uốn khúc theo các khu rừng già trên miền
biên giới Việt Nam–Campuchia thuộc tỉnh Tây Ninh. Chiếc
Mô–tô–lô–va đầu tiên rời trại tù Kà Tum từ sáng sớm và tới chiều
tối thì từng chiếc lần lượt tới đậu trong bãi đất trống, nơi đoàn
tù chúng tôi được chuyển tới. Bụng đói cồn cào, tôi đoán chừng đã
hơn 7 giờ chiều. Thời tiết đầu mùa Xuân hơi giá lạnh. Tối hôm
trước, tôi chỉ ăn khúc khoai mì và một chén cơm nhỏ có mọt và
mốc, phần còn lại tôi để ăn “lót bụng” buổi sáng trước khi đi lao
động. Nhưng, sau tiếng còi gọi tập họp bất thường lúc trời tờ mờ
sáng theo lệnh của viên quản giáo, chúng tôi phải vội vã ra sân
bóng chuyền để tập họp. Nét mặt viên quản giáo còn ngái ngủ, lấy
ngón trỏ của bàn tay phải dụi và cậy ghèn mắt, rồi ông nói:
– Mọi người lo thu dọn quân trang
chuyển trại, các anh có 30 phút, xong, tập họp, xếp hàng điểm
danh, khẩn trương lên.
Vì vậy, tôi đành
nhịn đói suốt ngày. Đã 3 lần chuyển trại, ngày giờ cũng như địa
điểm là những điều bí mật. Đoàn xe thường khởi hành vào sáng sớm
hoặc trong đêm khuya. Lần đầu, từ trại tập trung Don Bosco Gò Vấp
đến trại tù Trảng Lớn–Tây Ninh, lần thứ hai từ trại Trảng Lớn
chuyển tới trại tù Kà Tum nằm sát biên giới Campuchia. Và lần này
cũng như lần trước, lệnh tập họp chuyển trại được thông báo bất
ngờ vào buổi sáng tinh sương, anh em tù không biết sẽ bị di
chuyển về đâu, không biết chuyến đi lành hay dữ.
Trời chiều đã nhá nhem tối, bầu trời
miền biên giới tỉnh Tây Ninh và Campuchia xám ngắt với những cơn
mưa phùn, những hạt mưa lấm tấm rơi, nhẹ như hạt bụi. Những cụm
mây xám đang trôi lơ lửng trên đỉnh ngọn núi Bà Đen như báo tin
cho người tù biết những ngày tháng u buồn ảm đạm vẫn đang giăng
mắc trong cuộc đời mỗi người. Tôi chưa đến núi Bà bao giờ, nhưng
qua báo chí tôi được biết núi Bà rất cao, đột khởi giữa đồng bằng
Nam bộ với ngôi thánh thất nguy nga và tràn ngập thiện nam tín nữ
Cao Đài trong những ngày lễ hội trước năm 1975. Những người tù
chúng tôi đã bị giải giao qua lại 3 trại tù khác nhau giữa vùng
rừng già biên giới Việt–Campuchia từ sau ngày đất nước rơi vào
tay đảng cộng sản Việt Nam năm 1975. Nhưng dù ở bất cứ trại tù
nào, chúng tôi vẫn nhìn thấy núi Bà với những cụm mây xám chì
lãng đãng trôi trên đỉnh.
Trên đường di chuyển người tù, như để
đánh lạc hướng, đoàn xe chạy loanh quanh trên các đường rừng rồi
ngừng lại dọc đường một vài lần cho đến khi tới địa điểm mới thì
ngày đã đi vào tối. Đằng sau cái cổng lớn của trại khoảng hơn nửa
cây số là một khu đất trống, các xe lần lượt rẽ vào và từng chiếc
tuần tự đậu sát bên nhau.
Trời đã sập tối mà mới có 5, 7 chiếc
tới bãi đất trống với những cán binh cộng sản súng cầm tay trong
tư thế sẵn sàng nhả đạn, đứng gác. Đêm núi rừng như buông xuống
lẹ hơn ở miền đồng bằng. Sau khi chiếc xe tắt máy khoảng 10 phút,
anh em tù được lệnh xuống xe thì cảnh vật khu rừng già miền biên
giới đang đi vào bóng đêm, cách khoảng 5, 6 bước chân không nhìn
rõ mặt người đối diện.
Mỗi người tù với 1, 2 túi xách hành lý,
và soong nồi nấu ăn để bên cạnh chỗ đứng, một số anh em vươn tay
làm vài động tác cho dãn gân cốt sau một ngày ngồi bó gối như nêm
cối, san sát bên nhau trên sàn xe, chân tay tê cứng. Tôi thầm
nghĩ, tất cả anh em có lẽ cũng đang đói như tôi. Bầu trời đen
kịt, tiếng còi rít lên 2, 3 lần, tia sáng từ chiếc đèn pin của
người bộ đội đứng trước đám tù quét qua quét lại trên bãi đất
trống. Sau một chuỗi ho khan, anh nói lớn tiếng:
– Trong khi chờ đợi các xe đến đủ, các
anh xếp hàng dọc, mỗi hàng 11 người, mỗi hàng cách nhau 3 bước.
Người đứng đầu là tổ trưởng, cuối hàng là tổ phó.
Đội hình hàng dọc, hàng ngang là những
động tác quen thuộc của mỗi người lính. Những người tù quen nhau,
thân nhau tự động đứng xếp hàng bên nhau, và trong vài ba phút,
tất cả những người tù đã xếp hàng xong theo đội hình mà người bộ
đội yêu cầu. Tay cầm xấp giấy, đi tới đi lui, có lẽ anh là cán bộ
quản giáo có nhiệm vụ ký nhận anh em tù, anh nói lớn:
– Tất cả ngồi xuống.
Giọng nói khàn, cộc lốc của anh giống
như người bị thiếu hơi vì bịnh suyễn. Bầu trời đen như đêm 30.
Những làn mưa phùn như bụi sương rơi vẫn kéo dài từ xế chiều khi
trời chưa tối hẳn làm những người tù co ro trong ướt lạnh, cảnh
vật thật u uất. Lúc chiếc xe Mô–tô–lô–va rẽ vào chiếc cổng lớn có
lá cờ đỏ sao vàng cắm ở giữa rũ xuống trong nước mưa đã khiến tôi
nhớ đến câu thơ của Trần Dần, một thi sĩ đảng viên đảng cộng sản
Việt Nam mà tôi đã đọc trong một tạp chí văn học trước năm 1975,
với chủ đề Vụ Án Nhân Văn Giai Phẩm... Tôi lẩm bẩm câu thơ trong
miệng:
“Tôi
bước đi không thấy phố thấy nhà
Chỉ thấy
mưa sa trên màu cờ đỏ”.
Bụng đói, đầu óc mệt mỏi, tay chân rã
rời, tôi cảm thấy cuộc đời tù đày thật thống khổ, nhục nhằn, căm
hận, nước mắt muốn trào ra.
Chúng tôi ngồi trên sân cỏ chừng 1
tiếng đồng hồ thì đoàn xe từng chiếc một đã tới nơi. Các anh em
tù tới sau cũng được lệnh xếp thành hàng như chúng tôi. Bầu trời
tối đen như mực, mưa đã tạnh hẳn. Với giọng chân quê miền Nam,
tiếng người cán bộ lùn và ốm nói thật lớn theo ánh sáng của chiếc
đèn pin rọi tới rọi lui, quét ngang quét dọc với xấp giấy cầm
trên tay.
–
Các anh im lặng, nghe tôi đọc tên, khi nghe tên mình thì nói có
mặt. Đây là trại Cây Cày A thuộc tỉnh đội Tây Ninh. Hơn 10 giờ
tối rồi, tranh thủ, ta làm xong sớm còn về lán nghỉ, ngày mai ổn
định chỗ ăn ở. Các anh nghe rõ không?
– Rõ.
Tiếng anh em tù đáp lại.
Đứng, ngồi, chờ đợi cả ngày, có lẽ vệ
binh cũng như cán bộ cũng muốn làm cho xong việc để về ngủ. Và
sau khoảng hơn nửa tiếng điểm danh, giao tù tại hàng, chúng tôi
được lệnh đi theo hàng một, người nọ để tay phải lên vai người
kia cho khỏi lạc. Trời tối đen như thân phận những người tù, mọi
người lằm lủi, im lặng bước theo sau người quản giáo dùng đèn Pin
soi đường, dẫn về lán trại với những vệ binh vác súng đi kèm đằng
trước và phía sau đoàn người tù.
Từ bãi đất trống về lán ở cũng không xa
lắm, khoảng chừng hơn nửa cây số, mỗi tổ ở một nhà, không có cửa
trước và cửa sau, ở giữa nóc nhà có một ngọn điện, ánh sáng vàng
vọt yếu ớt đủ để nhìn thấy mặt người, chiếu thẳng xuống cái bàn
gỗ dài. Những ngày tháng sau khi nhập trại, chúng tôi ngồi trên 2
băng ghế của cái bàn dài này để họp tổ mỗi tối. Chung quanh các
căn nhà là những khóm chuối do những anh em tù đã ở đây trồng
trước khi chúng tôi di chuyển tới. Các anh đã bị chuyển đi trại
khác và chúng tôi đến ở những căn nhà trống đã được các anh đốn
cây trong rừng về làm trước đây. Có lẽ những căn nhà này bỏ hoang
đã lâu, nên bốc lên mùi hôi ẩm mốc, bốn bề yên lặng với tiếng côn
trùng vo ve trong đêm tối.
Điện trại tù tắt, báo hiệu đã 11 giờ
đêm. Ngọn đèn dầu trên bàn giữa nhà le lói ánh sáng mờ, một số
anh em mệt quá đã ngủ thiếp đi, một vài anh còn dọn dẹp, sắp xếp
đồ của mình trên đầu sạp tre và dưới gầm cho gọn. Tôi ngồi trên
sạp tre, thõng chân xuống đất – chỗ dành cho tôi để ngủ. Tôi cảm
thấy mệt nhưng không buồn ngủ, sau khi đã ăn chút cơm và củ khoai
mì còn lại của buổi sáng ở Kà Tum. Không gian về đêm thật yên
lặng trong ánh sáng mờ mờ của cây đèn dầu. 2 người cao dong dỏng,
mặc áo lính cũ của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, một người mặc quần
dài, một người mặc quần đùi từ cửa trước tiến đến chỗ tôi ngồi.
– Xin lỗi, anh Võ Bị hay Thủ Đức? Đã ăn
gì chưa?
Người
thanh niên hỏi tôi, giọng thật nhỏ, vừa đủ cho tôi nghe.
– Dạ, tôi Thủ Đức. Tôi vừa ăn chút cơm
và miếng khoai mì rồi. Cám ơn anh.
– Trong tổ này có anh em Võ Bị nào
không?
Một
trong hai anh hỏi.
Tôi chỉ tay về hướng 2 anh tù trẻ tuổi,
mới độ chừng 23, 24, trước đây ở Trảng Lớn cùng khối, cùng đội
với tôi, đang nằm ngủ thiếp đi ở cuối phòng, xéo góc với chỗ tôi
đang ngồi, rồi tôi nói:
– 2 anh đó là dân Võ Bị.
2 anh nói cám ơn, rồi bước qua chỗ 2
anh Võ Bị đang ngủ, lay chân, đánh thức 2 anh dậy. Một trong hai
anh hỏi nhỏ, chỉ đủ nghe:
– Võ Bị khóa mấy?
– Dạ, 28.
– Niên trưởng 26 đây. Đã ăn uống gì
chưa?
– Thưa
niên trưởng, chưa.
Một trong hai người khóa đàn em trả
lời.
– Có mấy
Võ Bị về đây đêm nay?
Một niên trưởng hỏi.
– Chỉ có 2 ở đội này.
Người tù khóa đàn em trả lời, rồi hai
bên kể tên một vài cựu sinh viên võ bị đã gặp ở những trại tù
trước đây. Sau những lời thăm hỏi ngắn gọn, một niên trưởng nói:
– Tắm sơ một chút cho đỡ mệt, nhưng
khuya quá rồi. Thôi, lát nữa niên trưởng đem chút đồ ăn đến, ăn
tạm cho đỡ đói.
– Dạ, cám ơn 2 niên trưởng.
Một người khóa đàn em nói.
2 người thanh niên vội quay bước ra đi,
và khoảng 5, 7 phút sau, một trong hai anh trở lại với cái túi
nhỏ – loại túi bằng vải nhám, bền chắc, dùng để đựng đất hay cát
che chắn cho các công sự phòng thủ của Quân đội Việt Nam Cộng Hòa
trước năm 1975.
– Đây là cơm, chao, mấy củ mì và muối
đậu phộng, ăn đỡ. Nhớ giữ sức khoẻ. Đường còn dài.
– Dạ. Cám ơn niên trưởng.
– Thôi niên trưởng về, mai mốt gặp lại.
– Dạ, chào niên trưởng.
Giọng người đàn em nói nhỏ nhẹ vì xúc
động trước sự săn sóc của 2 người niên trưởng.
Người niên trưởng mất hút trong bóng
đêm. Tôi ngỡ ngàng trước tình huynh đệ trong đêm đen của người
chiến binh, của người niên trưởng và đàn em đã sa cơ thất thế với
những gian khổ đang bủa vây chập chùng. Nghe và chứng kiến tình
người trong vài giây phút ngắn ngủi đã làm tôi quên đi những mệt
mỏi sau một ngày dài chuyển trại, và hình ảnh Đà Lạt cùng những
kỷ niệm của những năm tháng đi công tác trên xứ hoa đào sống lại
trong ký ức tôi.
Niềm vui trong đêm đen đến với tôi thật
bất ngờ, dù rằng 2 niên trưởng không phải là niên trưởng hay
huynh trưởng của tôi.
Trải qua những lần thanh lọc và chuyển
trại, nổi trôi theo mệnh nước, mỗi người một phương. Nhưng mỗi
khi đọc những bài viết với những hình ảnh liên hệ tới những năm
tháng thăng trầm của dân tộc và những người lính Việt Nam Cộng
Hòa, tôi vẫn cảm thấy bàng bạc đâu đây hình ảnh người chiến binh
quả cảm, yêu tự do và tràn đầy tình tự dân tộc năm xưa.
Chu Kim Long
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by CATHY chuyển
Đăng ngày Thứ Tư, July 19,
2023
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang