Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tạp
ghi
Chủ đề:
ĐCSVN
Tác giả:
L.S. Nguyễn Hữu
Thống
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Tháng hai năm 2000, nhà cầm quyền Hà Nội đã tổ chức
trọng thể lễ kỷ niệm 70 năm thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương
(ĐCSĐD). Trong dịp này họ viện dẫn những thành quả mà họ đã đạt
được trong nửa thế kỷ vừa qua và tự ban cho mình tư cách và tính
chính thống để độc quyền lãnh đạo quốc gia từ trước tới nay và từ
nay về sau.
NHẬN ĐỊNH VỀ CHỦ TRƯƠNG ĐƯỜNG LỐI CỦA ĐCSĐD
Gạt bỏ mọi thành kiến và mọi lý luận
tuyên truyền, chúng tôi chỉ căn cứ vào những tài liệu lịch sử và
những văn kiện pháp lý để đưa ra những nhận định sau đây liên
quan đến chủ trương đường lối của ĐCSĐD.
NHẬN ĐỊNH THỨ NHẤT VỀ ĐƯỜNG LỐI ĐẤU
TRANH
a) Trong
công cuộc giải phóng dân tộc, ĐCSĐD đã chủ trương đấu tranh võ
trang, bạo động, vọng ngoại và liên kết với Quốc Tế CS (QTCS).
Trên bình diện dân tộc đây là một sai lầm chiến lược khiến cho 3
triệu thanh niên nam nữ thuộc 3 thế hệ đã phải hy sinh xương máu
trong 3 cuộc Chiến Tranh Đông Dương (CTĐD):
CTĐD Thứ Nhất chống Pháp trong 8 năm
(l946–l954)
CTĐD Thứ Hai chống Thế Giới Dân Chủ (Hoa Kỳ và Đồng Minh) trong
20 năm (l955–l975) và
CTĐD Thứ Ba tự chống lẫn nhau trong 10
năm, chiến tranh Miên Việt chỉ kết thúc năm 1989 do sự can thiệp
của Liên Hiệp Quốc.
b) Trong số 14 nước thuộc địa, bảo hộ
và giám hộ tại Á Châu, chỉ có 3 nước Đông Dương dưới quyền lãnh
đạo của ĐCSĐD là đã đấu tranh võ trang, bạo động, vọng ngoại và
liên kết với QTCS. Trái lại, tất cả 11 quốc gia khác đã đấu tranh
công khai, ôn hòa, hợp pháp, không bạo động, không vọng ngoại và
nhất là không liên kết với QTCS.
Hơn nữa trong khi ĐCSĐD đã đứng vào
hàng ngũ QTCS để đấu tranh võ trang nhằm lật đổ các đế quốc tư
bản Tây Phương, thì các đảng quốc gia tại Á Châu đã chủ trương
hợp tác và thương nghị với đế quốc cũ để giành lại tự trị trong
giai đoạn đầu và độc lập trong giai đoạn sau. Cũng vì vậy họ đã
tiết kiệm được nhiều hy sinh xương máu và thời gian giành độc lập
đã được rút ngắn rất nhiều (từ 1 đến 4 năm sau Thế Chiến Thứ Hai,
thay vì 30 năm như trường hợp Việt Nam).
c) Từ 1946 đến 1949 tất cả các đế quốc
Tây Phương đã lần lượt tự giải thể để trả độc lập cho 12 thuộc
địa Á Châu:
Độc lập năm l946: Phi Luật Tân thuộc Hoa Kỳ, Syrie và Liban thuộc
Pháp
Độc lập
năm l947: Ấn Độ và Đại Hồi thuộc Anh
Độc lập năm l948: Miến Điện, Tích Lan
và Palestine thuộc Anh (Quốc gia Do Thái đuợc thành lập).
Độc lập năm l949: Việt Nam, Ai Lao, Cao
Miên thuộc Pháp, Nam Dương thuộc Hoà Lan
(1)
d) Năm 1919 tại Hội Quốc Liên (tổ chức
tiền thân của Liên Hiệp Quốc), Tổng Thống Hoa Kỳ Woodrow Wilson
đề xướng quyền Dân Tộc Tự Quyết để khuyến cáo các Đế Quốc Tây
Phương từng bước trả tự trị và độc lập cho các thuộc địa Á Phi.
Từ đó trào lưu tiến hóa tất yếu của lịch sử là sự giải thể tiệm
tiến của các đế quốc Tây Phương. Trào lưu tiến hóa này đã thể
hiện năm 1935 khi Hoa Kỳ trả tự trị cho Phi Luật Tân và năm 1936
khi Pháp trả tự trị cho Syrie và Liban.
Như vậy lịch sử đã chứng minh rằng đấu
tranh không bạo động, không vọng ngoại và không liên kết với QTCS
là đường lối khôn ngoan và hữu hiệu nhất để giành tự trị và độc
lập cho quốc gia. Ngược lại, đứng vào hàng ngũ QTCS để đấu tranh
võ trang nhằm lật đổ các đế quốc Tây Phương là một sai lầm chiến
lược. Vì đây không phải là chiến tranh giành độc lập mà là chiến
tranh ý thức hệ giữa QTCS và Thế Giới Dân Chủ. Kinh nghiệm dân
gian cảnh giác rằng hễ trâu bò húc nhau là ruồi muỗi chết! (3
triệu nạn nhân tại Triều Tiên, 3 triệu tại Việt Nam, 2 triệu tại
Miên Lào và 1 triệu tại A Phú Hãn). Những nạn nhân này đã hy
sinh, không phải để giành độc lập quốc gia, mà để cho ĐCS cướp
chính quyền.
NHẬN ĐỊNH THỨ HAI VỀ VIỆC GIÀNH ĐỘC LẬP
a) Trung thành với chủ nghĩa quốc tế vô
sản, ĐCSĐD đã phủ định chủ nghĩa dân tộc. (2) Họ không chủ trương
giành độc lập vì quốc gia dân tộc và không quan niệm độc lập quốc
gia như một cứu cánh tối hậu, một mục tiêu chiến lược phải tranh
thủ với bất cứ giá nào, với bất cứ hy sinh nào, kể cả việc hy
sinh những quyền lợi riêng tư của các đảng phái. Lịch sử đã chứng
minh rằng ĐCSĐD chỉ sử dụng cuộc đấu tranh giành độc lập như một
chiêu bài, một chiến thuật hay một phương tiện để đạt được mục
tiêu chiến lược của họ là Cướp Chính Quyền. Họ đã chống đối bất
cứ giải pháp độc lập nào không cho họ độc quyền lãnh đạo quốc
gia.
b) Ngày
27/3/l947 Hội Đồng Chính Phủ Ramadier và Hội Đồng các Chính Đảng
Pháp (lãnh đạo Quốc Hội) đã công bố Quyết Nghị về chính sách mới
của Pháp tại Việt Nam. Theo Quyết Nghị này Pháp không chủ trương
tái lập các thuộc địa tại Á Châu. Pháp tán thành nguyện vọng
chính đáng của nhân dân Việt Nam về độc lập và thống nhất (ba
miền cùng chung một lịch sử, một chủng tộc, một văn hóa và một
ngôn ngữ). (3)
Đặc biệt là cũng trong năm 1947, Pháp
đã chính thức đăng ký Việt Nam là một quốc gia độc lập tại Liên
Hiệp Quốc. (4)
c) Chủ quyền độc lập của Việt Nam đã
được thừa nhận bởi Hiệp Định Elysée ngày 8/3/1949 ký kết giữa
Tổng thống Pháp Vincent Auriol và Quốc trưởng Bảo Đại. Ngày
6/6/1949 Quốc Hội Pháp phê chuẩn Hiệp Định Elysée. Từ đó chiếu
công pháp quốc tế Việt Nam được hoàn toàn độc lập, các hiệp ước
ký với Pháp trong hậu bán thế kỷ 19 đã bị bãi bỏ
(5).
Thời gian này, tháng 3–l949, Trung Cộng
đang thôn tính lục địa Trung Hoa và đã chiếm đóng Bắc Kinh. Theo
sách lược của QTCS, việc cộng sản hóa Trung Hoa sẽ mở đầu cho
việc cộng sản hóa hai bán đảo Đông Dương và Triều Tiên. Trước
nguy cơ này, các nhà lãnh đạo phe Thế Giới Dân Chủ chủ trương giữ
vững Việt Nam trong hàng ngũ thế giớí dân chủ chống lại âm mưu
thôn tính của phe QTCS.
Vì Việt Nam là một quốc gia liên kết
với Pháp, nên giữa Việt Nam và Pháp có nghiã vụ an ninh hỗ tương.
Nay Việt Nam đang bị đe doạ về an ninh quốc nội (nội loạn) và an
ninh quốc ngoại (ngoại xâm), nên Pháp có nghiã vụ phải mang quân
(hay điều quân) để bảo vệ biên thùy Việt Nam. Theo quy chế Liên
Hiệp Pháp biên thùy của Việt Nam là biên thùy của Liên Hiệp Pháp
và đồng thời cũng là biên thùy của Thế Giới Dân Chủ.
d) Mặc dầu vậy ĐCSĐD đã phủ nhận nền
độc lập này. Họ tiếp tục chiến đấu võ trang để được độc quyền yêu
nước, độc quyền kháng chiến, độc quyền thương nghị với Pháp, độc
quyền ký hiệp ước với Pháp và rồi độc quyền lãnh đạo quốc gia.
Để vận động toàn dân chiến đấu võ
trang, ĐCSĐD đã tuyên truyền rằng Pháp đem quân trở lại Việt Nam
để tái lập chế độ thuộc địa. Do đó họ phải chiến đấu võ trang
chống Pháp để giành lại độc lập cho quốc gia.
Đây là một luận điệu tuyên truyền xuyên
tạc. Vì từ năm 1947 Hội Đồng Chính Phủ và Chính Đảng Pháp đã
quyết định không tái lập chế độ thuộc địa tại Á Châu và tán thành
nguyện vọng độc lập của nhân dân Việt Nam. Trước đó, năm 1946,
Pháp đã trả độc lập cho Syrie và Liban. Cũng trong năm 1947 Pháp
đã đăng ký Việt Nam là một quốc gia độc lập tại LHQ. Và năm 1949
bằng Hiệp Định Elysée, Tổng thống và Quốc Hội Pháp đã chính thức
thừa nhận chủ quyền độc lập và thống nhất của Việt Nam.
NHẬN ĐỊNH THỨ BA VỀ VIỆC THỐNG NHẤT ĐẤT
NƯỚC
a) Năm
l975 ĐCSĐD đã không có công thống nhất đất nước. Vì theo quốc tế
công pháp quốc gia Việt Nam đã được độc lập và thống nhất từ năm
l949 chiếu Hiệp Định Élysée ngày 8/3/l949.
Ngày 23/4/l949, Quốc Hội Nam Kỳ đã biểu
quyết giải tán chế độ Nam Kỳ Tự Trị để sáp nhập lãnh thổ Nam Kỳ
vào quốc gia Việt Nam độc lập và thống nhất.
b) Tuy nhiên ĐCSĐD đã phủ nhận nền độc
lập này và đã phá hoại nền thống nhất này. Lý do là vì Hiệp Định
Élysée không cho họ độc quyền lãnh đạo quốc gia. Do đó họ vẫn
tiếp tục chiến đấu võ trang để ký Hiệp Định Genève chia đôi đất
nước và cướp chính quyền tại Miền Bắc năm l954. Và rồi họ lại
tiếp tục chiến đấu võ trang để cướp chính quyền tại Miền Nam năm
l975.
Kể từ
năm 1955, ĐCSĐD lại tuyên truyền rằng Mỹ đã thay thế Pháp để
thống trị Miền Nam. Do đó họ phải chiến đấu võ trang chống Mỹ để
giải phóng Miền Nam và thống nhất đất nước. Đó cũng là một luận
điệu tuyên truyền xuyên tạc. Vì quân đội Mỹ chiến đấu tại Triều
Tiên và Việt Nam không phải để thống trị 2 quốc gia này mà để bảo
vệ biên thùy của Thế Giới Dân Chủ.
c) Tấm bản đồ Việt Nam ông cha chúng ta
đã tạo lập nên hồi đầu thế kỷ 19. Sau này vì hèn yếu và nhu
nhược, chúng ta đã phải nhượng cho Pháp 6 tỉnh Miền Nam. Năm 1949
đồng bào Miền Nam đã hành sử quyền dân tộc tự quyết để thâu hồi
chủ quyền lãnh thổ và bồi đắp lại tấm bản đồ từ Nam Quan đến Cà
Mâu. Tuy nhiên bằng chiến tranh võ trang, Hồ Chí Minh đã cầm tay
xé đôi tấm bản đồ năm 1954 để cướp chính quyền tại Miền Bắc. Và
rồi cũng bằng chiến tranh võ trang, năm 1975, các đồng chí của
ông ta đã cướp nốt chính quyền tại Miền Nam. Rồi họ lấy băng keo
dán 2 mảnh dư đồ lại và tuyên bố rằng: “Hồ Chí Minh có công thống
nhất đất nước”.
Chúng tôi đưa ra những nhận định này
trên cương vị một người nghiên cứu sử học và luật học, chứ không
với tư cách một cán bộ tuyên truyền cho một chủ thuyết hay một
chế độ chính trị nào.
ĐỐI CHIẾU CÁC PHONG TRÀO GIẢI PHÓNG DÂN
TỘC TẠI Á CHÂU
Muốn có một cái nhìn khách quan và
trung thực, chúng ta hãy đối chiếu công cuộc đấu tranh giành độc
lập tại Việt Nam với các phong trào giải phóng dân tộc khác tại Á
Châu.
Sau Thế
Chiến Thứ Hai, trong số 14 nước thuộc địa, bảo hộ và giám hộ tại
Á Châu, chỉ có 3 nước Đông Dương dưới quyền lãnh đạo của ĐCSĐD là
đã đấu tranh võ trang, bạo động, vọng ngoại và liên kết với Quốc
Tế CS. Trái lại các đảng quốc gia tại 11 nước Á Châu khác đã chủ
trương đấu tranh công khai, ôn hòa, hợp pháp, không bạo động,
không vọng ngoại và nhất là không liên kết với Quốc Tế CS.
Từ l946 đến l949 tại Á Châu, tất cả các
đế quốc Tây Phương Mỹ, Anh, Pháp, Hòa Lan đã lần lượt tự giải thể
để trả lại độc lập cho các nước thuộc địa, bảo hộ hay giám hộ.
1) 1946: Phi Luật Tân độc lập, Hoa Kỳ
là quốc gia đi tiên phong trong việc giải phóng thuộc địa. Nguyên
là một cựu thuộc địa, Hoa Kỳ có truyền thống đấu tranh giải phóng
dân tộc. Nhân dân Hoa Kỳ có cảm tình với những phong trào đấu
tranh giành độc lập tại Á Phi.
Đầu thập niên 1930, Luật Sư Quezon,
lãnh tụ Đảng Quốc gia Phi Luật Tân tới Hoa Thịnh Đốn để vận động
Quốc Hội Hoa Kỳ ban hành quy chế tự trị và độc lập cho Phi Luật
Tân. Năm l934 Quốc Hội Hoa Kỳ biểu quyết thông qua Luật
Tydings–McDuffie Act công nhận Phi Luật Tân là một quốc gia tự
trị (dominion) từ 1935. Trong đạo luật này có khoản quy định
rằng, 10 năm sau, đúng ngày quốc khánh Hoa Kỳ (4 tháng 7, 1945)
Phi Luật Tân sẽ được hoàn toàn độc lập. Tuy nhiên tới ngày đó,
Chiến Tranh Thái Bình Dương chưa kết thúc, nên Phi Luật Tân chỉ
được tuyên bố độc lập ngày 4/7/1946, trễ mất một năm vì lý do
chiến cuộc.
Trong thời chiến tranh, L.S. Quezon được mời tham gia Ủy Ban
Chiến Tranh vùng Thái Bình Dương, và người phụ tá của ông, L.S.
Roxas đã hoạt động tình báo cho tướng McArthur.
Khẩu hiệu đấu tranh của Đảng Quốc Gia
Phi Luật Tân là “Độc Lập do Hợp Tác” (Independence through
Cooperation).
2) 1946: Syrie và Liban độc lập
Nếu Hoa Kỳ có truyền thống đấu tranh
giải phóng dân tộc, thì Pháp cũng là quốc gia có truyền thống Tự
Do, Bình Đẳng, Bác Ái tiến bộ nhất trong lịch sử loài người.
Tại Syrie và Liban, lãnh đạo phong trào
giải phóng dân tộc là Đảng Nhân Dân tại Syrie và L.S. Dabbas tại
Liban. Dabbas đã từng du học tại Paris, nơi đây ông hay biết
rằng, ngoài các đảng bảo thủ chủ trương duy trì thuộc địa còn có
Đảng Xã Hội Pháp chủ trương giải phóng lao động và giải phóng
thuộc địa.
Năm
1936 Mặt Trận Bình Dân nắm chính quyền, Thủ Tướng Xã Hội Léon
Blum ký hiệp ước với Syrie và Liban để trả tự trị cho 2 quốc gia
này. Và 10 năm sau, năm 1946 quân đội Liên Hiệp Pháp rút lui để
trả độc lập cho Syrie và Liban.
3) 1947: Ấn Độ và Đại Hồi độc lập
Sau các Đế Quốc Hoa Kỳ và Pháp, đến
lượt Đế Quốc Anh bắt đầu tự giải thể. Tới Thế Chiến Thứ Hai, Anh
Quốc đã thành lập được một đế quốc lớn nhất từ cổ chí kim chạy từ
Bắc Mỹ qua Âu Châu, Phi Châu, Á Châu và Úc Châu. Người ta thường
nói “mặt trời không bao giờ lặn trên Đế Quốc Anh”. Vậy mà 2 năm
sau Thế Chiến Thứ Hai, năm 1947, Đế Quốc Anh bắt đầu tự giải thể.
Tại Ấn Độ, 3 nhà lãnh đạo phong trào
giải phóng dân tộc là các luật sư Gandhi, Nehru và Jinnah. Các vị
này đã từng du học tại Anh, nơi đây họ hay biết rằng, bên cạnh
Đảng Bảo Thủ chủ trương duy trì thuộc địa, còn có Đảng Lao Động
Anh chủ trương giải phóng lao động và giải phóng thuộc địa.
Năm 1947 Thủ Tướng Lao Động Clement
Attlee trả độc lập cho Ấn Độ và Đại Hồi, và qua năm sau, 1948,
trả độc lập cho Miến Điện, Tích Lan và Palestine, mặc dầu mọi
phản kháng quyết liệt của Churchill, lãnh tụ Đảng Bảo Thủ.
Khác với ĐCSĐD, Đảng Quốc Hội Ấn Độ chủ
trương đấu tranh công khai, ôn hòa, hợp pháp, không bạo động,
không vọng ngoại và nhất là không liên kết với Quốc Tế CS.
Với một dân số quá đông (400 triệu, so
với 20 triệu ở Việt Nam năm 1945) trong một xã hội lạc hậu, nghèo
đói, thất học, với những mâu thuẫn trầm trọng về tôn giáo, chủng
tộc, ngôn ngữ, đẳng cấp và giai cấp, cuộc đấu tranh tại Ấn Độ 10
lần khó hơn tại Việt Nam. Vậy mà Ấn Độ đã giành được độc lập 2
năm sau Thế Chiến Thứ Hai, trong khi dân tộc ta đã phải hy sinh
xương máu ròng rã trong 40 năm.
4) 1948: Miến Điện, Tích Lan, Palestine
độc lập.
Người
anh hùng dân tộc Miến Điện là Aung San (thân phụ bà Aung San Suu
Kyi hiện lãnh đạo phong trào Dân Chủ tại Miến Điện). Cũng như
Gandhi, Aung San tình nguyện chiến đấu trong Quân Đội Hoàng Gia
Anh. Cùng với U Nu, ông thành lập Liên Đoàn Nhân Dân Tự Do Chống
Phát Xít để hợp tác với Đế Quốc Anh, chống Nhật...
Năm l948 Miến Điện được trao trả độc
lập.
Tại Tích
Lan Hiến Pháp năm l931 ấn định thời gian tập sự tự trị là 15 năm.
Với chủ trương Thiện Chí và Hợp Tác (Good Will and Cooperation),
Đảng Quốc Gia Tích Lan đã giành được tự trị năm l945 và độc lập
năm l948.
Tại
Do Thái hai nhà lập quốc Ben Gourion và Moshe Dayan thuộc Đảng
Lao Động cũng tình nguyện chiến đấu trong Quân Đội Đồng Minh
trong hai trận thế chiến. Năm l948 với sự yểm trợ của Hoa Kỳ,
quốc gia Do Thái được thành lập dưới sự bảo trợ của LHQ. Cũng
trong năm này, Palestine đã thoát quyền giám hộ của Đế Quốc Anh.
5) 1949: Nam Dương độc lập
Sau các Đế Quốc Anh Mỹ Pháp đến lượt Đế
Quốc Hòa Lan tự giải thể năm l949. Phong trào giải phóng dân tộc
Nam Dương được phát động bởi giới trí thức du học Hòa Lan. Trong
khi Đảng CS theo sách lược bạo động võ trang thì Đảng Quốc Gia
Nam Dương chủ trương đấu tranh ôn hòa bất bạo động bằng canh tân
và giáo dục. Sukarno lập Câu Lạc Bộ Văn Hoá Bandung và Hatta lập
Hội Giáo Dục Quốc Gia Nam Dương để nâng cao dân trí và chấn hưng
dân khí. Hatta du học 10 năm tại Hoà Lan và Sjahrir đã từng gia
nhập Đảng Lao Động Hoà Lan trong thời gian du học.
Năm 1942 Nhật chiếm đóng Nam Dương,
Sukarno hợp tác với Nhật. Tháng 8, l945 Nhật đầu hàng Đồng Minh,
Sukarno tuyên bố Nam Dương độc lập. Nhưng rồi quân đội Hòa Lan
theo chân quân đội Anh sang giải giới quân đội Nhật, Sukarno chủ
trương thương nghị với Hoà Lan.
Trong những năm l946 và l948, Đảng CS
Nam Dương phát động chiến đấu võ trang để phá thương nghị. Thời
gian này nước láng giềng Phi Luật Tân đã được độc lập. Tổng thống
Truman vận động LHQ áp lực Hoà Lan phải hòa đàm với chính phủ
Sjahrir. Lúc này Hoa Kỳ đang thực thi Kế Hoạch Marshall để tái
thiết Âu Châu thời hậu chiến nên tiếng nói của Hoa Kỳ có trọng
lượng đối với Hòa Lan. Hội Nghị Bàn Tròn La Haye được triệu tập
dưới sự bảo trợ của LHQ. Tháng 12–1949, do Hiệp ước La Haye, Hòa
Lan thừa nhận chủ quyền độc lập của Nam Dương.
Staline thiết lập Đế Quốc Sô Viết: Ảnh
Hưởng đối với Việt Nam.
Như vậy là từ 1946 đến 1949 tất cả các
đế quốc Tây Phương như Anh, Mỹ, Pháp, Hoà Lan đã lần lượt tự giải
thể để trả độc lập cho các thuộc địa Á Châu.
Trong khi đó tại Đông Âu, Staline đã
thiết lập một đế quốc mới mệnh danh là Đế Quốc Sô Viết bằng cách
thôn tính 3 nước Baltic là Lithuanie, Lettonie và Estonie. Sau
đó, Liên Xô thiết lập “bức màn sắt” tại 7 nước Đông Âu là Ba Lan,
Hung Gia Lợi, Tiệp Khắc, Đông Đức, Albanie, Bulgarie, và Roumanie
(bức màn sắt là chữ của Churchill).
Từ đó, chiến tranh lạnh hay chiến tranh
ý thức hệ bộc phát giữa Quốc Tế CS và Thế Giới Dân Chủ.
Các nhà lãnh đạo phe Thế Giới Dân Chủ
như Truman, Churchill và De Gaulle nhất quyết không trao Đông
Dương cho ĐCSĐD vì họ không muốn Staline mở rộng bức màn sắt từ
Đông Âu qua Đông Á.
Riêng tại Việt Nam, De Gaulle cũng nhất
quyết không trao Nam Kỳ cho Hồ Chí Minh vì Nguyễn Ái Quốc là cán
bộ QTCS phụ trách vùng Đông Nam Á.
Cũng vì vậy mà hồi tháng 12–1945 De
Gaulle đã mời cựu hoàng Duy Tân từ đảo Réunion tới Paris thương
nghị.
Nhiều
tài liệu cho biết De Gaulle đã chấp thuận trên nguyên tắc để Duy
Tân về nước đầu năm l946. Trước đó, hai bên sẽ ký một hiệp ước
công nhận Việt Nam là một quốc gia tự do và tự trị trong Liên
Bang Đông Dương và trong Liên Hiệp Pháp. Chính phủ Việt Nam sẽ
được toàn quyền quản trị về mặt nội bộ. Tuy nhiên vì lúc này
ĐCSĐD đã cướp chính quyền tại Miền Bắc, nên quân đội Pháp còn
phải ở lại Việt Nam một thời gian với tư cách là quân đội Liên
Hiệp Pháp, để giúp Việt Nam giải quyết các vấn đề an ninh quốc
nội (nội loạn) và an ninh quốc ngoại (ngoại xâm). Theo quy chế
của tổ chức Liên Hiệp Pháp, giữa Pháp và Việt Nam có nghĩa vụ an
ninh hỗ tương. Do đó quân đội Pháp có nghĩa vụ bảo vệ biên cương
của Việt Nam, đồng thời cũng là biên cương của Liên Hiệp Pháp.
Rất tiếc là mùa Giáng Sinh 1945 Duy Tân
đã tử nạn máy bay trên sa mạc Trung Phi trên đường từ Paris về
thăm nhà. Nhiều người cho đây là một vụ phá hoại. Nguyên nhân phi
cơ phát hỏa là vì “hết xăng”. Đây là một nguyên nhân hy hữu vì
không một phi hành đoàn nào chịu cất cánh nếu máy bay không chứa
đủ xăng nhớt.
Việc Duy Tân mất đi là một đại bất hạnh cho Việt Nam cũng như cho
Pháp. Vì nếu đầu năm l946 Duy Tân về nước lập chính phủ quốc gia
giành lại tự trị, độc lập và thống nhất cho Việt Nam thì chiến
tranh Việt Pháp sẽ có cơ tránh được. Hồ Chí Minh sẽ không còn
được độc quyền yêu nước và có lẽ chẳng còn ai muốn gia nhập ĐCSĐD
nữa (năm 1945 ĐCSĐD chỉ có 5 ngàn đảng viên).
Lúc này Đảng CS Pháp đã thông tri cho
Staline và Hồ Chí Minh biết rằng De Gaulle đã có giải pháp quốc
gia về Việt Nam. Cũng vì vậy mà, tháng 11–1945, Hồ Chí Minh đã
phải giả bộ giải tán ĐCSĐD và vội vã thành lập một chính phủ liên
hiệp quốc gia với sự tham gia của Cách Mạng Đồng Minh Hội (với
Nguyễn Hải Thần) và Việt Nam Quốc Dân Đảng (với Vũ Hồng Khanh và
Nguyễn Tường Tam) để làm bình phong thương nghị với Pháp.
Ngày 6/3/1946 tại Hà Nội, nhân danh
chính phủ liên hiệp, Hồ Chí Minh ký Hiệp Ước Sơ Bộ Sainteny và
chấp thuận mọi điều khoản mà De Gaulle đã thỏa thuận với Duy Tân:
Việt Nam là một nước tự do và tự trị trong Liên Bang Đông Dương
và trong Liên Hiệp Pháp. 15 ngàn quân Pháp được đồn trú tại Bắc
Kỳ trong thời hạn 5 năm.
Sau đó hồi tháng 9–l946 tại Paris, Hồ
Chí Minh đã đến nhà riêng của Moutet để xin ký Thỏa Ước Tạm Thời
(Marius Moutet là đồng chí cũ trước khi Nguyễn Ái Quốc bỏ đảng Xã
Hội để gia nhập ĐCS Pháp).
Tuy nhiên mặc dầu lúc này De Gaulle đã
từ nhiệm, các nhà lãnh đạo Thế Giới Dân Chủ vẫn nhất quyết không
trao Đông Dương cho ĐCSĐD.
Không còn hy vọng cướp chính quyền bằng
ngoại giao, Hồ Chí Minh phát động chiến tranh võ trang ngày
19/12/1946.
Bằng hành động gây chiến này, Hồ Chí Minh đã vi phạm Hiệp Ước Sơ
Bộ Sainteny và Thỏa Ước Tạm Thời Moutet.
Do đó, 3 tháng sau, ngày 27/3/1947 Hội
Đồng Chính Phủ Ramadier cùng Hội Đồng các Chính Đảng Pháp công bố
Quyết Nghị về chính sách mới của Pháp tại Việt Nam, theo đó Pháp
tán thành nguyện vọng chính đáng của nhân dân Việt Nam về độc lập
và thống nhất.
Điều đáng chú ý là lãnh tụ Cộng sản
Maurice Thorez và lãnh tụ Xã Hội Marius Moutet đã ký tên vào
Quyết Nghị này cùng với thủ tướng Ramadier.
Ngoài ra cũng trong năm 1947 tại Liên
Hiệp Quốc, Pháp đã chính thức đăng ký 3 nước Đông Dương (Việt
Miên Lào) là những quốc gia độc lập.
Như vậy là từ năm 1947 Pháp đã công bố
ý định trao trả độc lập và thống nhất cho Việt Nam và đã đăng ký
Việt Nam là một quốc gia độc lập tại Liên Hiệp Quốc. (Sở dĩ Việt
Nam không được gia nhập LHQ vì gặp sự phản kháng của Liên Xô hành
sử quyền phủ quyết.)
Năm 1947, nếu Hồ
Chí Minh là người yêu nước, nếu Nguyễn Ái Quốc là nhà ái quốc
biết đặt quyền lợi của quốc gia dân tộc lên trên quyền lợi của
đảng phái, thì ông ta đã phải lập tức ngưng chiến để cho phe quốc
gia có điều kiện hòa đàm và ký kết với Pháp một hiệp ước để giành
lại độc lập và thống nhất cho Việt Nam.
Tuy nhiên Hồ Chí Minh không phải là
người yêu nước, Nguyễn Ái Quốc không phải là nhà ái quốc nên ông
ta vẫn tiếp tục đẩy tới chiến tranh võ trang để phá vỡ mọi giải
pháp độc lập quốc gia.
Mặc dầu vậy các chính phủ Pháp kế tiếp
vẫn trung thành với Quyết Nghị của Hội Đồng Chính Phủ và Chính
Đảng Pháp năm 1947.
Ngày 7/12/1947 Cao Ủy Bollaert ký Hiệp
Ước Sơ Bộ Vịnh Hạ Long với Quốc trưởng Bảo Đại, để thừa nhận chủ
quyền độc lập của Việt Nam. Hiệp Ước Sơ Bộ này được chính thức
hóa bởi Hiệp Ước Vịnh Hạ Long ngày 5/6/1948 ký kết giữa Cao Ủy
Bollaert và Tướng Nguyễn văn Xuân, Thủ tướng Chính Phủ Quốc Gia
Lâm Thời, với sự bối thự của Quốc trưởng Bảo Đại. Theo Hiệp Ước
này Pháp long trọng thừa nhận nền độc lập của Việt Nam và Việt
Nam được quyền tự do tiến hành thủ tục để thực hiện nền thống
nhất quốc gia chiếu nguyên tắc dân tộc tự quyết.
Và ngày 8/3/1949 tại Điện Elysée
(Paris) Tổng thống Pháp Vincent Auriol, nhân danh Tổng thống Cộng
Hòa Pháp và nhân danh Chủ tịch Liên Hiệp Pháp, đã ký với Quốc
trưởng Bảo Đại Hiệp Định Elysée Công Nhận Việt Nam Thống Nhất Và
Độc Lập Trong Liên Hiệp Pháp. (Quy chế Liên Bang Đông Dương đã bị
bãi bỏ).
Do
Quyết Nghị ngày 23/4/1949 Quốc Hội Nam Kỳ đã giải tán chế độ Nam
Kỳ tự trị và sáp nhập Nam Phần vào quốc gia Việt Nam độc lập và
thống nhất.
Ngày 6/6/1949 Quốc Hội Pháp phê chuẩn Hiệp Định Elysée và chính
thức thừa nhận quốc gia Việt Nam độc lập và thống nhất.
Chúng ta không nên có thành kiến cho
rằng gia nhập Liên Hiệp Pháp là vi phạm chủ quyền quốc gia. Vì
các nước Ấn Độ, Đại Hồi, Canada, Úc Đại Lợi, Tân Tây Lan, v.v.
cũng là những quốc gia độc lập trong Liên Hiệp Anh.
Về mặt an ninh quốc phòng, nếu năm 1949
Việt Nam không gia nhập Liên Hiệp Pháp thì quân đội viễn chinh
Pháp phải rút khỏi Việt Nam (như tại Syrie và Liban năm 1946). Và
chỉ trong một tuần lễ (như tại Nam Hàn năm 1950), phe Quốc Tế
cộng sản sẽ nhuộm đỏ toàn thể bán đảo Đông Dương.
Khách quan mà xét, năm 1949 độc lập
trong Liên Hiệp Pháp là giải pháp tối ưu cho Việt Nam. Chúng ta
có thể sử dụng các chuyên viên Pháp là những người am hiểu phong
tục tập quán, biết rõ dân tình nước ta, lại có những kinh nghiệm
về khai thác nông lâm súc, công kỹ nghệ thương mãi, xây cất cầu
cống, đường sá, sông ngòi, hải cảng, cồn đảo, v.v. Ngoài ra họ
còn có thể cố vấn chúng ta để xây dựng môt nền giáo dục phổ
thông, một nền hành chánh hiện đại và một nền tư pháp độc lập để
tiến tới tam quyền phân lập và dân chủ pháp trị.
Về mặt phát triển, chúng ta có sẵn thị
trường Liên Hiệp Pháp để xuất cảng các hàng hóa và các nông, lâm,
khoáng sản, v.v. Do đó, năm 1949, độc lập trong Liên Hiệp Pháp là
giải pháp tối ưu cho Việt Nam.
Nhưng rồi ĐCSĐD đã đưa dân tộc ta vào
con đường chông gai chết chóc trong suốt 40 năm (từ 1949 đến
1989). Đại hạnh của Ấn Độ là có một Gandhi theo chủ nghĩa dân
tộc. Đại bất hạnh của Việt Nam là có một Nguyễn Ái Quốc theo chủ
nghĩa quốc tế vô sản.
Tổng kết lại, Chiến Tranh Đông Dương
Thứ Nhất có thể chia làm 3 giai đoạn:
1) l946–l947: chiến tranh giành độc
lập.
2)
1947–1949: hoà đàm và thương nghị.
3) l949–1954: chiến tranh ý thức hệ
giữa QTCS và Thế Giới Dân Chủ (như Chiến Tranh Triều Tiên). Vì từ
1949 Việt Nam đã giành được độc lập nên chiến tranh không phải để
giải phóng dân tộc nữa, mà là một phương tiện giúp CS cướp chính
quyền.
Chỗ tế nhị là phe Thế Giới Dân
Chủ đã được đại diện bởi Liên Hiệp Pháp, một tổ chức sáng lập bởi
Cộng Hòa Pháp là một quốc gia bị mang tiếng đã thôn tính Việt Nam
làm thuộc địa để khai thác. Hơn nữa năm 1946 Quân Đội Pháp đổ bộ
Hải Phòng với tư cách Quân Đội Viễn Chinh. Kể từ 1949 Quân Đội
Pháp chiến đấu dưới danh nghĩa Quân Đội Liên Hiệp Pháp tại Đông
Dương để bảo vệ biên thùy của Việt Nam. Sự thay đổi danh nghĩa là
một vấn đề pháp lý tế nhị mà người dân khó có thể nhận định được.
HIỆP ĐỊNH ĐÌNH CHIẾN GENÈVE 1954 VÀ
HIỆP ĐỊNH HÒA BÌNH PARIS 1973
Chiến Tranh Đông Dương Thứ Nhất kết
thúc bởi Hiệp Định Đình Chiến Genève ngày 20/7/1954 (giống như
Hiệp Định Đình Chiến Bàn Môn Điếm ngày 27/7/l953 tại Triều Tiên).
Hiệp Định Genève là một hiệp ước thuần
túy quân sự có tác dụng “đình chiến và ấn định một giới tuyến
quân sự tạm thời”. Tại vùng giới tuyến thuộc quyền kiểm soát của
quân đội bên nào thì chính quyền bên ấy phụ trách việc quản trị
hành chánh.
Vì
là một hiệp ước quân sự, Hiệp Định Genève chỉ mang chữ ký của 2
tướng lãnh đại diện Quân Đội Bắc Việt (là Thiếu tướng Tạ Quang
Bửu) và đại diện Quân Đội Liên Hiệp Pháp tại Đông Dương (là Thiếu
tướng Henri Delteil).
Vì không tham chiến ở Việt Nam nên Hoa
Kỳ không ký tên vào Hiệp Định Genève.
Quốc gia Việt Nam cũng không ký. Chiếu
Hiệp Định Elysée 1949, Việt Nam là một hội viên liên kết của Liên
Hiệp Pháp. Khi có chiến tranh, quân đội Việt Nam và quân đội Pháp
sẽ cùng chiến đấu dưới danh nghĩa quân đội Liên Hiệp Pháp. Một Bộ
Tham Mưu Hỗn Hợp được thành lập với một tướng lãnh Pháp làm tư
lệnh hành quân và một tướng lãnh Việt Nam làm tham mưu trưởng. Vì
Hiệp Định Genève là một hiệp ước thuần tuý quân sự, nên về phía
Liên Hiệp Pháp chỉ cần có chữ ký của vị tư lệnh hành quân Henri
Delteil là đủ.
Ngày hôm sau, 21/7/1954, một Bản Tuyên
Ngôn Sau Cùng khuyến cáo hai miền Nam Bắc hiệp thương và tổ chức
tổng tuyển cử trong những năm 1955 và l956. Tuy nhiên tuyên ngôn
không phải là hiệp ước. Vì đây chỉ là bản Tuyên Ngôn Ý Định
(declaration d’intention) không mang chữ ký của bất cứ phái đòan
nào nên không có giá trị pháp lý (Cũng như các bản Tuyên Ngôn Độc
Lập của Bảo Đại ngày 11/3/1945, của Hồ Chí Minh ngày 2/9/1945 và
của Sukarno ngày 17/8/1945).
Vả lại cũng trong ngày 21/7/1954, ngoại
trưởng Quốc Gia Việt Nam Trần Văn Đỗ và trưởng phái đoàn Hoa Kỳ
Bedell Smith đã ra tuyên cáo minh thị phản kháng sự áp đặt các
giải pháp chính trị trong một hiệp ước quân sự, mà không có sự
thỏa thuận của phái đoàn Quốc Gia Việt Nam.
(7)
Hiệp Định Đình Chiến Genève, theo danh
xưng, chỉ là một bản hiệp ước thuần tuý quân sự để quy định giới
tuyến quân sự hay ranh giới ngưng bắn: ngưng bắn tại chỗ (da beo)
hay ngưng bắn theo một giới tuyến (vĩ tuyến 38 tại Triều Tiên, vĩ
tuyến 17 tại Việt Nam). Nó không áp đặt những giải pháp chính
trị. Vấn đề thống nhất Nam Bắc là một vấn đề chính trị thuộc
quyền dân tộc tự quyết sẽ do hai quốc gia ấn định sau này (như
trường hợp Triều Tiên: sau hơn 50 năm vẫn chưa có giải pháp chính
trị). Do đó Việt Nam Cộng Hoà không vi phạm Hiệp Định Genève khi
khước từ tổng tuyển cử năm 1956.
(8)
Hiệp Định Hòa Bình Paris 1973 trái lại,
là một hiệp ước ngoại giao và có tác dụng chính trị. Trước hết về
mặt nghi thức nó mang chữ ký của các đại biểu các quốc gia kết
ước:
Trần Văn
Lắm, ngoại trưởng Việt Nam Cộng Hòa
Williams Roger, ngoại trưởng Hoa Kỳ
Nguyễn Duy Trinh, ngoại trưởng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và
Nguyễn Thị Bình, ngoại trưởng Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam.
Điều 15 Hiệp Định Hòa Bình Paris quy
định rằng “việc thống nhất Việt Nam sẽ được thực hiện từng bước
bằng phương pháp hoà bình trên căn bản thương nghị và thỏa thuận
giữa Miền Bắc và Miền Nam, không bên nào cưỡng ép bên nào, không
bên nào thôn tính bên nào. Thời gian thống nhất sẽ do Miền Bắc và
Miền Nam đồng thỏa thuận” (theo nguyên tắc nhất trí)
(9)
Vậy mà 2 năm sau, năm 1975, khi chữ ký
của họ còn chưa ráo mực, Bắc Việt phát động chiến tranh võ trang
để thôn tính Miền Nam. Hội trường đã nhường chỗ cho chiến trường,
thương nghị thỏa thuận đã bị bạo lực cưỡng chế, và phương pháp
hòa bình đã bị chiến tranh võ trang xoá bỏ.
Đây là một vi phạm thô bạo Hiệp Định
Paris. Luật pháp văn minh của loài người đã bị thay thế bởi luật
rừng xanh.
KẾT
LUẬN:
Nói tóm
lại:
1) Phủ
nhận chủ nghĩa dân tộc, ĐCSĐD đã phạm sai lầm chiến lược khi liên
kết với QTCS để đấu tranh bạo động võ trang khiến dân tộc ta phải
hy sinh xương máu ròng rã trong 40 năm.
2) ĐCSĐD không có công giành độc lập
năm 1954 vì Việt Nam đã được độc lập từ 1949 chiếu Hiệp Định
Elysée. Hơn nữa, Việt Nam đã được đăng ký tại Liên Hiệp Quốc là
một quốc gia độc lập từ 1947.
3) ĐCSĐD không có công thống nhất đất
nước năm 1975 vì Việt Nam đã được thống nhất năm 1949 khi Quốc
Hội Nam Kỳ biểu quyết giải tán chế độ Nam Kỳ tự trị để sáp nhập
Nam Phần vào lãnh thổ quốc gia Việt Nam độc lập và thống nhất.
4) Trên bình diện dân tộc 3 cuộc Chiến
Tranh Đông Dương là những cuộc chiến tranh vô ích, vô lý và vô
nghĩa.
5) Vì
vậy Đảng Cộng sản không có tư cách và không có tính chính thống
để độc quyền lãnh đạo quốc gia từ trước tới nay và từ nay về sau.
Và chế độ CS phải được giải thể để cho người dân được quyền mưu
cầu hạnh phúc trong một chế độ Dân Chủ Pháp Trị, trong đó các dân
quyền và nhân quyền được tôn trọng, kinh tế quốc gia được phát
triển và công bằng xã hội được thực thi.
L.S. Nguyễn Hữu Thống
(Phục Hồi Sự Thật Lich Sử)
CHÚ THÍCH
(1) Hai nước còn lại là Mã Lai và Tân
Gia Ba trong Liên Bang Mã Lai Á. Năm 1948 Đảng CS Mã Lai lập
chiến khu chiến đấu võ trang. Để dẹp nội loạn, chính phủ Anh ban
hành tình trạng thiết quân luật. Từ năm 1952 đảng Quốc Gia Mã Lai
đưa ra chủ trương “độc lập do hợp tác chủng tộc” kết hợp các sắc
dân Mã Lai, Trung Hoa và Ấn Hồi. LS Abdul Rahman đã từng làm phó
chưởng lý tại Anh. Abdul Razah phục vụ trong quân đội Hoàng Gia
Anh thời Thế Chiến Thứ Hai. Sau 5 năm tự trị, Mã Lai được độc lập
năm 1957.
Năm
1959 đến lượt Tân Gia Ba được giải phóng do chủ trương “độc lập
nhờ liên lập” (với Mã Lai trong Liên Bang Mã Lai Á). Lý Quang
Diệu đã từng gia nhập Luật Sư Đoàn Luân Đôn và đảng Lao Động Anh
trong thời gian du học.
Năm 1989, khi hòa bình Đông Dương vãn
hồi, dân số tại 3 nước Đông Dương là 61 triệu và tại 11 cựu thuộc
địa Á Châu khác là 1 tỷ 40 triệu.
(2) Năm 1930 danh xưng “ĐCSVN” đã bị
QTCS bác bỏ và thay bằng danh xưng “ĐCSĐD”.
(3) Nguyễn Khắc Ngữ: Bảo Đại, các Đảng
Phái Quốc Gia và sự thành lập Chính Quyền Quốc Gia.
(4) Everyone’s United Nations, ấn bản
năm 1986, trang 332.
(5) Nguyễn Khắc Ngữ, sđd.
(6) Tự Truyện Gandhi: Trí Hải. Cũng như
tại Ấn Độ, phe thực dân hạ cấp tại Đông Dương gồm 20 ngàn người
da trắng. Bọn này chống lại cả người Việt yêu nước và người Pháp
dân chủ.
(7)
Thế Nguyên: Đông Dương 1945–1973.
(8) Đề cập đến tổng tuyển cử tại một
nước CS chỉ là chuyện khôi hài. Trong hơn 50 năm tại Bắc Việt có
bao giờ người công dân được hành sử quyền tự do ứng cử và tự do
bầu cử?
(9)
Thế Nguyên, sđd.
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Những
bài liên quan
Giải tỏa huyền thoại Hồ chí Minh
Giải tỏa hào quang Đảng cộng sản
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by TCDV chuyển
Đăng ngày Thứ Tư, July 20,
2022
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang