Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tạp
ghi
Chủ đề:
Hồ chí Minh
Tác giả:
L.S. Nguyễn Hữu
Thống
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Để
xây dựng uy tín cho Hồ Chí Minh, Đảng cộng sản VN đã sử dụng
nhiều chiêu bài và ngụy tạo nhiều huyền thoại:
1) Huyền thoại gia đình cách mạng.
2) Huyền thoại lên đường cứu nước.
3)
Tiếm danh Nguyễn Ái Quốc.
4) Giả danh
Trần Dân Tiên.
5) Giả đoàn kết quốc gia.
6) Giả hiệp ước quốc tế.
7) Ngụy tạo tư
tưởng Hồ Chí Minh.
1. HUYỀN THOẠI GIA ĐÌNH CÁCH MẠNG
Các nhà sử học Cộng sản trình bày rằng
Hồ Chí Minh xuất thân từ một gia đình cách mạng. Thân phụ là phó
bảng Nguyễn Sinh Sắc hay Nguyễn Sinh Huy, là bạn đồng khoa với
Phan Chu Trinh và thường giao kết với Phan Bội Châu là người đồng
hương. Sau khi được bổ nhiệm tri huyện Bình Khê, Nguyễn Sinh Sắc
đã tự ý từ quan để phản kháng chế độ thực dân phong kiến.
Sự thật không phải như vậy. Dầu là một
sĩ phu đỗ đại khoa, Nguyễn Sinh Sắc đã không có một đời sống cá
nhân đứng đắn. Ông thường say rượu và trong những lúc nóng giận
đã có thái độ thô lỗ và đánh đập con cái. Năm 1910, cũng vì say
sưa, Nguyễn Sinh Sắc đã quá tay đánh chết một nghi can là Tạ Đức
Quang. Cũng vì vậy ông bị triều đình tuyên phạt 100 trượng, giáng
4 cấp, cách chức tri huyện và sa thải khỏi quan trường. Sau này
ông được miễn phạt trượng hình. Dầu sao ông đã làm nhục giới nho
sĩ vì không biết tu thân trước khi trị quốc. Do sự sỉ nhục này
đối với sĩ lâm và bà con lối xóm, ông đã dắt các con rời bỏ nơi
chôn nhau cắt rốn, đi tha phương cầu thực làm nghề bốc thuốc tại
miền Nam.
Sự
thật lịch sử này đã được chứng minh bằng một văn thư do Hồ Chí
Minh dưới tên Paul Tất Thành viết từ Nữu Ước ngày 15/12/1912 gửi
Khâm Sứ Trung Kỳ, xin cho cha được phục chức và được làm thừa
biện, giáo thụ hay huấn đạo để có phương tiện mưu sinh.
Và truyền thống gia đình cách mạng của
Hồ Chí Minh chỉ là một huyền thoại (Chính Đạo: Hồ Chí Minh, con
người và huyền thoại).
2. HUYỀN THỌAI LÊN ĐƯỜNG CỨU NƯỚC
Các nhà sử học CS còn trình bày rằng
năm 21 tuổi Hồ Chí Minh rời Bến Nhà Rồng Sài Gòn xuất dương lên
đường cứu nước. Thời gian này, phong trào kháng thuế tại Quảng
Nam và các tỉnh miền Trung đã bị dập tắt. Trường Đông Kinh Nghĩa
Thục tại Hà Nội đã bị thâu hồi giấy phép và tại Nhật Bản, Phan
Bội Châu, Cường Để cùng 200 sinh viên Việt Nam du học đã bị trục
xuất. Theo gương Phan Chu Trinh, năm 1911 Hồ Chí Minh tìm đường
qua Pháp để học hỏi tinh thần tự do dân chủ, hy vọng có ngày trở
về giải phóng đồng bào khỏi ách đế quốc tư bản.
Đây cũng chỉ là một huyền thoại. Do đơn
ngày 15/9/1911, Nguyễn Tất Thành xin Bộ Thuộc Địa Pháp đặc cách
cho theo học Trường Thuộc Địa “để trở nên người hữu ích cho nước
Pháp” (utile à la France). Trường Thuộc Địa là trung tâm đào tạo
các cán bộ hành chánh và giáo dục của chế độ thuộc địa. Theo quy
chế, các sinh viên phải được sự giới thiệu của nhà chức trách
Đông Dương. Nhiều vị khoa bảng và trí thức nổi tiếng đã theo học
trường này như Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim, Thân Trọng Huề, Bùi Quang
Chiêu, Bùi Bằng Đoàn, v.v. Vì không đúng thủ tục, đơn của Nguyễn
Tất Thành đã bị bác bỏ.
Và huyền thoại Hồ Chí Minh từ Bến Nhà
Rồng xuất dương lên đường cứu nước đã bị giải tỏa.
3. TIẾM DANH NGUYỄN ÁI QUỐC
Từ 1911 đến 1914, Nguyễn Tất Thành làm
phụ bếp tại các tầu buôn của hãng Les Chargeurs Réunis chạy quanh
các nước Âu Châu, Phi Châu và Mỹ Châu. Khi Thế Chiến Thứ Nhất
bùng nổ, Nguyễn Tất Thành sang Anh làm phụ bếp tại nhà hàng
Carlton và trở về Paris năm 1917. Trong thời gian này LS Phan Văn
Trường đã thành lập Hội Những Người Việt Nam Yêu Nước để đấu
tranh công khai đòi tự trị và độc lập cho Việt Nam.
Do lời mời của lãnh tụ Đảng Xã Hội Pháp
Jean Jaures (người đã can thiệp với Thủ tướng Pháp để ân xá cho
Phan Chu Trinh), cùng với cụ Phan, LS Phan Văn Trường đã nhiều
lần đến điều trần tại Quốc Hội Pháp để trình bày quan điểm về
chính sách bảo hộ của Pháp tại Việt Nam và đạo đạt nguyện vọng
của người dân Việt Nam lên Quốc Hội.
Sau Thế Chiến Thứ Nhất, năm 1919 tại
Paris, dưới bút hiệu chung Nguyễn Ái Quốc, bộ ba Phan Văn Trường,
Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn Tất Thành, nhân danh Hội Những Người
Việt Nam Yêu Nước đã đệ trình các Chính Phủ Đồng Minh và Chính
Phủ Pháp Thỉnh Nguyện Thư của Dân Tộc Việt Nam trong tinh thần
hợp tác và thương nghị, nguyên văn như sau:
“Từ sau cuộc chiến thắng của Đồng Minh,
các dân tộc bị trị vô cùng xúc động trước những triển vọng tương
lai, căn cứ vào những cam kết minh thị và trân trọng của các
cường quốc Đồng Minh trước dư luận thế giới trong cuộc đấu tranh
vừa qua để bảo vệ Văn Minh chống Dã Man.
Chiếu theo các cam kết này, một Kỷ
Nguyên mới của Luật Pháp và Công Lý sẽ khai mở đem lại hy vọng
chứa chan cho các dân tộc bị trị.
Trong khi chờ đợi Nguyên Tắc Chủ Quyền
Quốc Gia được chấp thuận trong lý tưởng cũng như trên thực tế do
sự thừa nhận và thực thi Quyền Dân Tộc Tự Quyết thiêng liêng, Dân
Tộc Việt Nam trân trọng đệ trình các Chính Phủ Đồng Minh cao quý,
cũng như Chính Phủ Pháp khả kính, những thỉnh nguyện khiêm tốn
sau đây:
1)
Ban hành Đại Xá cho tất cả các chính trị phạm bản xứ.
2) Cải thiện chế độ tư pháp Đông Dương
bằng cách ban hành những bảo đảm về quyền bình đẳng trước pháp
luật giữa người bản xứ và người Âu Châu. Bãi bỏ toàn bộ và vĩnh
viễn hệ thống tòa án đặc biệt được dùng làm công cụ khủng bố và
đàn áp các thành phần lương thiện nhất của dân tộc Việt Nam.
3) Ban hành Tự Do Báo Chí và Tự Do Ngôn
Luận.
4) Ban
hành Tự Do Lập Hội và Tự Do Hội Họp.
5) Ban hành Tự Do Di Trú và Xuất Ngoại.
6) Ban hành Tự Do Giáo Dục và thiết lập
tại các tỉnh những trường kỹ thuật và chuyên nghiệp cho người bản
xứ.
7) Thay
thế chế độ cai trị bằng nghị định bằng chế độ pháp trị.
8) Thành lập Phái Bộ Thường Trực dân cử
của người bản xứ bên cạnh Quốc Hội Pháp để đạo đạt tới Quốc Hội
những nguyện vọng của người bản xứ.
Khi đệ trình những thỉnh nguyện nêu
trên, Dân Tộc Việt Nam kỳ vọng vào nền Công Lý Thế Giới của các
Cường Quốc và đặc biệt tin tưởng vào sự hào hiệp của Dân Tộc Pháp
cao quý hiện đang nắm giữ vận mệnh của Dân Tộc Việt Nam bằng cách
đứng ra bảo hộ Dân Tộc Việt Nam nhân danh Cộng Hòa Pháp. Dân Tộc
Việt Nam không hổ thẹn được sự bảo trợ của Dân Tộc Pháp, trái lại
còn cảm thấy vinh hạnh. Vì họ biết rằng Dân Tộc Pháp biểu tượng
cho Tự Do và Công Lý, và sẽ không bao giờ từ bỏ lý tưởng cao cả
của Nghĩa Bác Ái toàn cầu. Vì những lý do đó, trong khi lắng nghe
tiếng nói của kẻ bị trị, Dân Tộc Pháp sẽ hoàn thành nghĩa vụ của
mình đối với nước Pháp cũng như đối với nhân lọai”.
Thay mặt Hội Những Người Việt Nam Yêu
Nước,
Nguyễn Ái Quốc
Luật Sư Phan Văn Trường, tiến sĩ luật,
Chủ Tịch Hội Những Người Việt Nam Yêu Nước là người soạn tài liệu
này.
Nguyễn Ái
Quốc (Nguyen le Patriote) là bút hiệu chung của bộ ba Phan văn
Trường, Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn Tất Thành. Nguyễn là dòng họ
đa số tại Việt Nam và Ái Quốc là phỏng theo tên Hội Những Người
Việt Nam Yêu Nước (Groupe des Patriotes Annamites). Với bút hiệu
này, họ đã viết những bài bình luận trên các báo của Đảng Xã Hội
như Nhân Loại (L’Humanité), Dân Chúng (Le Populaire), v.v. Mặc
dầu vậy, Hồ Chí Minh đã tự nhận mình là Nguyễn Ái Quốc. Dưới bút
hiệu Trần Dân Tiên, trong cuốn “Những Mẩu Chuyện về Đời Hoạt Động
của Hồ Chủ Tịch”, Hồ Chí Minh viết: “Khi chiến tranh chấm dứt,
tại Hội Nghị Hoà Bình Véc Xây, Tổng thống Mỹ Wilson nói về 14
điều. Các đại biểu các dân tộc bị áp bức đến để yêu cầu độc lập
và tự do. Trong số đó, có Nguyễn Ái Quốc (tức là Anh Ba hay Hồ
Chí Minh). Ông Nguyễn tổ chức nhóm người Việt Nam yêu nước tại
Paris và ở các tỉnh khác. Với danh nghĩa của tổ chức này, ông đã
đưa yêu cầu 8 điều ra trước Hội Nghị Véc Xây”.
Đây chỉ là một sự mạo nhận. Vì những lý
do sau đây:
a)
Thỉnh Nguyện Thư được soạn thảo nhân danh Hội Những Người Việt
Nam Yêu Nước, một tổ chức do Phan Văn Trường thành lập năm 1914
tại Paris, khi Nguyễn Tất Thành còn ở Luân Đôn.
b) Thỉnh Nguyện Thư đề cập đến những
nguyên tắc pháp lý mà trong thời gian đó (1919) chỉ các luật gia
và chính trị gia mới thấu hiểu như quyền bình đẳng trước pháp
luật, chế độ pháp trị, chế độ tòa án đặc biệt, quyền dân tộc tự
quyết, v.v.
c)
Đề nghị thành lập Phái Bộ Thường Trực Dân Cử Việt Nam tại Quốc
Hội Pháp là do sáng kiến của Phan Văn Trường. Từ năm 1911, cùng
với Phan Chu Trinh, theo lời mời của Jean Jaures, ông đã nhiều
lần đến điều trần tại Quốc Hội Pháp để đạo đạt những nguyện vọng
của nhân dân Việt Nam lên Quốc Hội.
d) Nguyễn Tất Thành chỉ là một học sinh
vừa qua bậc tiểu học và không có kiến thức chính trị. “Ông rất ít
hiểu về chính trị, không biết thế nào là công hội, thế nào là bãi
công, và thế nào là chính đảng... Ông không đủ tiếng Pháp để viết
và phải khẩn khoản yêu cầu ông Phan Văn Trường viết thay... Ông
lắng nghe những buổi thảo luận, nhưng không hiểu rõ về chủ nghĩa
tư bản, chủ nghĩa xã hội, giai cấp vô sản, v.v. ông nhức đầu vì
khó hiểu”. Vả lại vốn liếng tiếng Pháp của ông chỉ gồm những chữ
thông dụng trong đời sống hằng ngày học từ những cô sen trong
giới bình dân (Trần Dân Tiên, sđd).
e) Trần Dân Tiên còn nêu lên yêu cầu
bãi bỏ chế độ sưu dịch, thuế đinh, thuế muối và việc bắt ép dân
mua muối và thuốc phiện. Các điều khoản này không thấy trong bản
Thỉnh Nguyện Thư tiếng Pháp đăng trên báo L’Humanité ngày
18/6/1919. (Chính Đạo: Hồ Chí Minh, con người và huyền thoại).
Nói tóm lại, trái với lời Trần Dân
Tiên, Hồ Chí Minh không phải là tác giả Thỉnh Nguyện Thư của Dân
Tộc Việt Nam. Và năm 1919 Hồ Chí Minh cũng chưa phải là Nguyễn Ái
Quốc. Đây chỉ là một sự mạo nhận tư cách của Nguyễn Tất Thành,
một người ít học nhưng nhiều tham vọng.
Năm 1917, khi từ Luân Đôn trở về Paris,
Nguyễn Tất Thành tá túc tại nhà Luật sư Phan Văn Trường số 6
Villa des Gobelins. Năm 1914, Phan Chu Trinh và Phan Văn Trường
bị bắt giam về tội phản nghịch (tình nghi liên lạc với Cường Để
tại Berlin). Sau 9 tháng điều tra hai nhà chí sĩ họ Phan đã được
miễn tố (Phan Chu Trinh chủ trương hợp tác với Pháp đánh Đức,
cũng như Gandhi hô hào thanh niên Ấn Độ tình nguyện gia nhập quân
đội Hoàng Gia Anh). Mặc dầu vậy, hai vị vẫn bị cảnh sát điều tra
theo rõi. Mỗi khi có trát đòi Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn Tất Thành
đứng ra nhận trát, tự xưng là Nguyễn Ái Quốc. Ông nói “Nguyễn Ái
Quốc chính là tôi, các ông cứ đưa trát cho tôi, đừng làm phiền
chú/bác tôi (ý nói Phan Văn Trường hay Phan Chu Trinh)”. Năm
1921, Nguyễn Tất Thành bỏ Đảng Xã Hội để gia nhập Đảng CS dưới
tên Nguyễn Ái Quốc.
4. GIẢ DANH TRẦN DÂN TIÊN
Các nhà sử học cho rằng Hồ Chí Minh là
người thông minh, nhưng là sự thông minh ngoài phố. Sự khôn ngoan
giảo quyệt này đã được biểu lộ rõ nét nhất trong cuốn “Những mẩu
chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch” của Trần Dân Tiên xuất
bản và tái bản nhiều lần từ 1948 đến 1976. Ngày nay ai cũng biết
Trần Dân Tiên là Hồ Chí Minh. Trong lịch sử văn học thế giới,
không thấy một nhà văn tự trọng nào lại giả danh bằng một bút
hiệu để tự đề cao mình. Dùng bút hiệu thật để nói về mình cũng là
vạn bất đắc dĩ, vì cái tôi thường đáng ghét. Dùng bút hiệu giả để
thần thánh hóa mình thì quả là đáng ghét!
Chúng ta thử đánh giá sự khiêm tốn của
tác giả:
“Nhiều nhà văn nhà báo Việt Nam và ngoại quốc muốn viết tiểu sử
của vị Chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, nhưng mãi đến nay
chưa có người nào thành công. Nguyên nhân rất đơn giản: Chủ tịch
Hồ Chí Minh không muốn nhắc lại thân thế của mình (...). Hiện nay
còn nhiều việc cần thiết hơn, rất nhiều đồng bào đang đói khổ.
Sau 80 năm nô lệ, nước ta bị tàn phá, bây giờ chúng ta phải xây
dựng lại. Chúng ta nên làm những công việc hết sức cần kíp đi đã
(...). Với đức tính khiêm tốn nhường ấy, và đương lúc bề bộn bao
nhiêu công việc làm sao Hồ Chủ Tịch có thể kể lại bình sinh của
Người được”.
Thế nhưng Hồ Chủ Tịch đã đại ngôn:
“Khi còn là một thiếu niên 15 tuổi,
người thiếu niên ấy đã sớm hiểu biết và rất đau xót trước cảnh
thống khổ của đồng bào. Lúc bấy giờ anh đã có chí đuổi thực dân
Pháp, giải phóng đồng bào. Anh khâm phục các cụ Phan Chu Trinh,
Phan Bội Châu, Hoàng Hoa Thám, nhưng không hoàn toàn tán thành
cách làm của 3 người, vì:
– Cụ Phan Chu Trinh chỉ yêu cầu người
Pháp thực hiện cải lương.
– Cụ Phan Bội Châu hy vọng Nhật giúp đỡ
để đuổi Pháp, chẳng khác gì đưa hổ cửa trước rước beo cửa sau.
– Cụ Hoàng Hoa Thám còn nặng cốt cách
phong kiến”.
Năm 1905, khi Hồ Chí Minh 15 tuổi, cụ Phan Chu Trinh chưa viết
Đầu Pháp Chính Phủ Thư (l906), chưa phát động phong trào Duy Tân
và Đông Kinh Nghĩa Thục (l907). Vậy mà Hồ Chí Minh đã phê phán
chính sách canh tân và giáo dục của cụ là cải lương (mà cải lương
thì đã sao?).
Chưa thấy cụ Phan Bội Châu rước cọp vào nhà, chỉ thấy Hồ Chí Minh
cõng rắn CS về cắn gà nhà, gây tai hại vô lường cho đất nuớc và
dân tộc.
Năm
1945 khi mới 55 tuổi, Hồ Chí Minh tự phong mình là “cha già của
dân tộc”. Ông còn tự thần thánh hóa mình, kể rằng “chân dung Hồ
Chủ Tịch được treo trên bàn thờ giữa những bình hương hoa đèn
nến”.
“Hồ Chủ
Tịch được nhân dân yêu mến là do lòng hy sinh và lòng nhân từ của
Người. Chủ tịch không bao giờ nghĩ đến mình. Người chỉ nghĩ đến
người khác, nghĩ đến nhân dân (...). Đối với nhi đồng, tên Bác Hồ
là như một người mẹ hiền. Chỉ nhắc đến tên Bác là các em trở nên
ngoan ngoãn”.
Vậy mà người cha già (67 tuổi) đã nhẫn tâm để đàn em hạ sát người
vợ trẻ đã sinh cho mình đứa con trai là Nguyễn Tất Trung. Năm
l957, khi cô Nguyễn thị Xuân yêu cầu công khai hoá cuộc hôn phối
đã kéo dài trên 2 năm, Hồ Chí Minh vẫn ngọt ngào giả lả: “Cô xin
như vậy là hợp tình hợp lý, nhưng phải được Bộ Chính Trị đồng ý,
nhất là mấy ông Trường Chinh, Lê Đức Thọ, Hoàng Quốc Việt đồng ý
mới được”. Do đó, cô đành phải chờ một thời gian. Trong thời gian
này, cô đã biến thành chướng ngại vật làm mất uy tín của lãnh tụ.
Theo đúng phương châm hành động, tất cả những chướng ngại vật làm
cản trở con đường của lãnh tụ sẽ bị thanh toán và vô hiệu hóa.
Thanh toán trước hết bằng cách hạ nhục
đối phương, cho viên tướng công an Trần Quốc Hoàn mặc sức hãm
hiếp. Rồi cho thủ hạ trùm chăn lên đầu và dùng búa đánh vỡ sọ nạn
nhân (như vụ Staline hạ sát Trotsky tại Mexico).
Một người có những thủ đoạn bất nhân
như vậy, mà bộ máy tuyên truyền của CS còn đề cao như một vị anh
minh kết tinh “đức tính từ bi của Đức Phật, tính công bằng bác ái
của Chúa Ki Tô, sự minh triết của Khổng Tử, sự siêu thoát của Lão
Trang”.
Ngoài ra, Trần Dân Tiên còn tự
sánh mình với Mặc Tử là người đã mòn trán lỏng gót, bôn ba khắp
nơi để lo cho thiên hạ. Điều đáng nói là, trong khi Mặc Tử chủ
trương hòa bình, thì Hồ Chí Minh cổ võ chiến tranh. Trong khi Mặc
Tử theo thuyết kiêm ái, yêu dân tộc, yêu nhân loại, thì Hồ Chí
Minh gieo rắc căm hờn, thúc dục thú tính để phát động đấu tranh
giai cấp và thủ tiêu những lương dân vô tội và những người quốc
gia yêu nước theo chủ nghĩa dân tộc.
5. GIẢ ĐOÀN KẾT QUỐC GIA
Khi hay biết phe Thế Giới Dân Chủ không
chịu trao Đông Dương cho Đảng Cộng sản Đông Dương vì họ không
muốn Staline mở rộng Bức Màn Sắt từ Đông Âu qua Đông Á, ngày
11/11/1945 Nguyễn Ái Quốc giả bộ giải tán Đảng Cộng sản Đông
Dương để thành lập Hội Nghiên Cứu Chủ Nghĩa Các Mác. Để có chính
nghĩa đoàn kết quốc gia, Hồ Chí Minh mời Nguyễn Hải Thần thuộc
Cách Mạng Đồng Minh Hội và Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Tường Tam thuộc
Việt Nam Quốc Dân Đảng tham gia chính phủ liên hiệp.
Trong Tuyên Cáo Đoàn Kết ngày
24/12/1945, Hồ Chí Minh cam kết tôn trọng sự đoàn kết của các
đảng phái quốc gia để tranh thủ độc lập, “Vì độc lập quốc gia là
cứu cánh tối hậu cần phải tranh thủ và chỉ có sự hợp tác và hữu
nghị chân thành giữa những người Việt Nam mới có thể đạt được độc
lập quốc gia”. Ông còn lên án mọi hành vi phá hoại tình đoàn kết
quốc gia cũng như việc dùng võ lực để tiêu diệt các đảng phái
quốc gia.
Vậy
mà sau đó Trần Dân Tiên đã vu oan giá họa: “bọn phản động Nguyễn
Hải Thần, Nguyễn Tường Tam được Trung Hoa Quốc Dân Đảng giúp đỡ
đã có âm mưu phá hoại và Hồ Chủ Tịch đã phải nhường cho họ 70 ghế
quốc hội”.
Ngày 6/3/1946, Hồ Chí Minh ký Hiệp Ước Sơ Bộ Sainteny công nhận
Việt Nam là một quốc gia tự trị trong Liên Bang Đông Dương và
trong Liên Hiệp Pháp. 15–ngàn–quân Pháp được thay thế quân Trung
Hoa, đổ bộ Hải Phòng và đồn trú tại Bắc Việt trong 5 năm.
Tháng 5–1946, Hồ Chí Minh qua Paris
thương nghị. Phái đoàn Việt Nam đáng lẽ do ngoại trưởng Nguyễn
Tường Tam lãnh đạo, nhưng trước đó: “Bộ Trưởng Tam đã bỏ trốn”.
Và mùa hè năm đó, Nguyễn Hải Thần và Vũ Hồng Khanh cũng bỏ trốn
sang Tàu để khỏi bị sát hại như Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, v.v.
Sau khi tống xuất quân đội Trung Hoa, CS thẳng tay đàn áp và thủ
tiêu các cán binh Quốc Dân Đảng và Đồng Minh Hội. Như vậy, Tuyên
Cáo Đoàn Kết 1945 chỉ nhằm thành lập chính phủ liên hiệp để làm
bình phong thương nghị với Pháp. Rồi nhờ Pháp tống xuất Tàu cho
Đảng CS rảnh tay tiêu diệt các đảng phái quốc gia để được độc
quyền lãnh đạo.
Trong Thế Chiến Thứ Hai, để được Đồng
Minh yểm trợ, Staline đưa ra chính sách thân thiện với Anh Pháp.
Đảng CS Pháp phối hợp với Đảng Xã Hội trong Mặt Trận Bình Dân.
Phe CS Việt Nam cũng hợp tác với phe Tân Tả Phái của Tạ Thu Thâu,
Phan Văn Hùm, Trần Văn Thạch để thành lập Mặt Trận Dân Chủ và
xuất bản tờ La Lutte (Tranh Đấu). Trong những cuộc bầu cử Hội
Đồng Đô Thành Sài Gòn và Hội Đồng Quản Hạt Nam Kỳ, liên danh
Tranh Đấu của Tạ Thu Thâu toàn thắng. Đây là giai đoạn đấu tranh
công khai, ôn hòa, hợp pháp và bất bạo động. Chiêu bài đoàn kết
quốc gia một lần nữa được áp dụng. Nguyễn An Ninh thuộc phe Trung
Hoà, Tạ Thu Thâu thuộc phe Tân Tả Phái và Nguyễn Phan Long thuộc
phe Lập Hiến, đã đứng ra tổ chức Đông Dương Đại Hội để đạo đạt
thỉnh nguyện của nhân dân Việt Nam tới phái đoàn Quốc Hội từ
Paris sang.
Vậy mà ngay sau khi cướp được chính quyền, Đảng CS đã phản bội
lời giao ước đoàn kết và đã thủ tiêu Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm,
Trần Văn Thạch, Phạm Quỳnh, Bùi Quang Chiêu, Nguyễn Văn Sâm, Hồ
Văn Ngà, Dương Văn Giáo, v.v. là những người quốc gia yêu nước
thuộc các nhóm Tân Tả Phái và Lập Hiến.
Về việc hạ sát Tạ Thu Thâu, Hồ Chí Minh
còn giả nhân nghĩa tiếc Tạ Thu Thâu là người yêu nước. Nhưng ông
lại thêm rằng những ai chống lại chính sách của ông đều sẽ bị vô
hiệu hoá. Sau khi Staline thủ tiêu người chiến hữu đàn anh của
mình là Trotsky năm 1940, tất cả phe tân tả phái Trotskit đều
phải bị thanh toán và triệt hạ uy tín.
Ngoài ra, Hồ Chí Minh còn cho hạ sát
Đức Giáo Chủ Hòa Hảo Huỳnh Phú Sổ và các lãnh tụ các đảng phái
quốc gia yêu nước như Trương Tử Anh (Đại Việt), Lý Đông A (Duy
Dân), Khái Hưng, Nhượng Tống (Quốc Dân Đảng), v.v.
6. GIẢ HIỆP ƯỚC QUỐC TẾ
Theo sách lược CS ký hiệp ước không
phải để thi hành hiệp ước. Vì các hiệp ước ngoại giao chỉ là
những phương tiện để thực thi những mục tiêu chính trị:
a. Ký Hiệp Ước Sơ Bộ Sainteny ngày
6/3/1946 nhờ Pháp tống xuất Tàu để rảnh tay thanh toán các đảng
phái quốc gia nhằm giữ độc quyền yêu nước, độc quyền lãnh đạo.
Sau đó lại phát động chiến tranh ngày 19/12/1946.
b. Ký Hiệp Định Đình Chiến Genève 1954
để tống xuất Pháp và cướp chính quyền tại Miền Bắc. Sau đó lại
tái phát động chiến tranh.
c. Ký Hiệp Định Hòa Bình Paris 1973 để
tống xuất Mỹ. Sau đó lại tái phát động chiến tranh để thôn tính
Miền Nam.
7.
NGỤY TẠO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Sau cuộc Cách Mạng Giải Thể CS tại Đông
Âu, chủ nghĩa CS đã bị nhân dân thế giới vứt vào thùng rác lịch
sử. Tại Đức, quê hương của Các Mác, chủ nghĩa Mác đã bị phủ định
và được thay thế bằng chủ nghĩa Dân Chủ Tự Do và Dân Chủ Xã Hội.
Tại Nga, quê hương của Lê–nin, chủ nghĩa Lê–nin cũng đã bị phủ
định để thay thế bằng chủ nghĩa Dân Chủ Tự Do và Dân Chủ Xã Hội.
Trước sự phá sản của chủ nghĩa Mác Lê,
Đảng CS ngụy tạo cái gọi là “tư tưởng Hồ Chí Minh”, một điều mà
chính Hồ Chí Minh thời sinh tiền cũng không bao giờ đề cập đến.
Ông chỉ nói đến chủ nghĩa Mác Lê, tư tưởng Mao Trạch Đông, và tác
phong Hồ Chí Minh. Ông nhìn nhận rằng, về phần tư tưởng, “Bác Mao
đã viết cả rồi, tôi không còn gì để viết nữa”. Do đó ông chỉ thực
thi trung thành những nguyên lý Mác Lê và tư tưởng Mao Trạch
Đông. Ông hết sức tán tụng Staline và Mao Trạch Đông. Ông viết:
“Mao Trạch Đông đã đông phương hóa chủ nghĩa Mác Lê và đã đưa
cách mạng Trung Quốc đến thành công. Cách mạng Việt Nam phải học
tập và thực sự đã học hỏi rất nhiều từ cuộc cách mạng Trung Quốc.
Các nhà cách mạng (CS) Việt Nam phải ghi nhớ điều này và phải
biết ơn Mao Trạch Đông về sự đóng góp to lớn này”.
Thật vậy, Hồ Chí Minh không có tư tưởng
gì đặc sắc. Ông chỉ là người sao chép lại.
Những mục tiêu độc lập, tự do, hạnh
phúc ghi trong các tiêu đề chánh thức của nhà nước chỉ là phỏng
theo 3 cương lĩnh của chủ nghĩa Tam Dân do Tôn Dật Tiên đề xướng
trong Cách Mạng 1911: “Dân Tộc Độc Lập, Dân Quyền Tự Do và Dân
Sinh Hạnh Phúc”.
Bản Tuyên Ngôn Độc Lập do Hồ Chí Minh
đọc ngày 2/9/1945 cũng là sự sao chép Tuyên Ngôn Độc Lập Hoa Kỳ
theo đó: “mọi người sinh ra bình đẳng và được Tạo Hóa ban cho
những quyền bất khả xâm phạm như quyền sống, quyền tự do và quyền
mưu cầu hạnh phúc”. Thêm vào đó là lời mở đầu Tuyên Ngôn Nhân
Quyền và Dân Quyền Pháp 1789 (chứ không phải 1791 như Hồ Chí Minh
đã ngộ nhận): “mọi người sinh ra tự do và bình đẳng và luôn luôn
được tự do và bình đẳng”.
Dùng giả nhân nghĩa là ngụy quân tử.
Nhưng khéo ngụy trang Hồ Chí Minh đã viện dẫn các tư tưởng minh
triết của Nho Gia trong việc giáo hóa, trị dân và dựng nước như:
“Điều gì mình không muốn thì đừng làm cho người, cần kiệm liêm
chính, chí công vô tư, lo trước cái lo của dân, vui sau cái vui
của dân, không lo nghèo mà lo không đều, mười năm trồng cây, trăm
năm trồng người”, v.v.
Về mặt kiến thức, Hồ Chí Minh thú nhận
ông không am tường chính trị và nhức đầu khi nghe nói về những
vấn đề lý thuyết chủ nghĩa. Ông chỉ là người cán bộ thừa hành
trung thành và tận tụy của Staline và Mao Trạch Đông. Nhờ Phan
Chu Trinh, Phan Văn Trường và Nguyễn Thế Truyền, ông nổi danh vì
bút hiệu chung Nguyễn Ái Quốc. Từ đó, ông được giới thiệu với các
lãnh tụ Xã Hội và CS Pháp như Léon Blum, Marcel Cachin, v.v. Từ
một tiểu trí thức, ông đã bước lên địa vị một cán bộ CS quốc tế,
phụ trách vùng Đông Nam Á.
Trong khi các lãnh tụ CS Á Châu khác
như Roy tại Ấn Độ hay Malaka tại Nam Dương đều bị thất sủng dưới
bàn tay sắt của Staline vì họ có những tư tưởng hướng về chủ
nghĩa Dân Tộc và chủ thuyết Hồi Giáo, thì Hồ Chí Minh vẫn một
lòng một dạ chung thủy với Quốc Tế CS.
Dầu không có tư tưởng chính trị đặc sắc
nhưng Hồ Chí Minh đã thành công trong việc:
Dùng ngụy trang dối trá (ngụy chủ nghĩa
Dân Tộc);
Lấy
giả nhân giả nghĩa (bằng các chiêu bài độc lập, tự do, hạnh phúc,
đoàn kết, hòa giải, hòa hợp);
Để giành chính nghĩa (giải phóng dân
tộc, giải phóng lao động);
Và cướp chính quyền (để không chia
quyền với bất cứ ai).
L.S. Nguyễn Hữu Thống
28/6/2007 – 18/07/2022
Nguồn:
http://nguyenhuuthong.blogspot.com
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Những
bài liên quan
Giải tỏa huyền thoại Hồ chí Minh
Giải tỏa hào quang Đảng cộng sản
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by TCDV chuyển
Đăng ngày Thứ Tư, July 20,
2022
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang