Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Truyện
ngắn
Chủ đề:
Xã hội
Tác giả:
Phan
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
1.
Cha tôi đánh mẹ tôi như cơm
bữa, lần cuối cùng, năm tôi 6 tuổi. Hôm đó, cha về nhà với người
đàn bà son phấn chứ không xoàng xĩnh như mẹ tôi. Sáu tuổi đầu
nhưng tôi đã linh cảm được đại sự xảy ra! Thay vì chạy trốn đòn
như mọi lần cha về thì tôi chạy xuống bếp với mẹ để nhớ đời về
trận đòn kinh khủng mà mẹ tôi phải gánh chịu. Cha đuổi mẹ ra khỏi
nhà bằng những câu chửi tục tằn, những hành vi ghê sợ. Người đàn
bà kia đứng khoanh tay nhìn cha tôi đá cái lò củi đang cháy mà
trên đó là nồi cơm chiều đang sôi. Có lẽ do nước cơm đang sôi làm
phỏng chân vì cha đi dép chứ không phải giày nên ông nóng giận
hơn bình thường và đã trút cơn thịnh nộ lên mẹ tôi một trận đòn
kinh khủng. Ông đá mẹ tôi liên miên đến không đứng dậy nổi, cuối
cùng là nắm tóc và dập đầu mẹ vô vách đến khi dòng máu đỏ chảy
dài xuống mặt thì người đàn bà kia can ra, không cho đánh nữa. Bà
ta mở bóp đầm, lấy ra cái khăn tay để hỉ mũi... chứ không phải
lau máu cho mẹ tôi.
Mẹ nắm tay tôi, lom khom vì đau đến
không đứng thẳng người lên được, trở lên nhà trên, mẹ xốc thằng
em tôi đang ngủ dúi ở góc nhà. Mẹ vác nó lên vai, cố mang lên
lưng cho nó đừng khóc nữa. Chúng tôi ra khỏi nhà trong bóng chiều
chạng vạng. Người đàn bà kia đứng lặng nhìn theo... tương lai của
bà. Con chó phân bua vài tiếng sủa, rồi quyết định chạy theo
những kẻ khốn cùng.
Chúng tôi đi bộ thật gần để sang nhà bà
nội. Mẹ tôi gởi chị em tôi cho bà nội để đến nhà ông y tá trong
xóm băng bó vết thương vì máu chảy đầm đìa. Nội xua đuổi chúng
tôi làm om sòm cả xóm. Chú Tư tôi ngoài quán nhậu, nghe chuyện
trở về nhà. Ông ra lệnh cho bà nội giữ đứa con trai, (năm đó, em
tôi 4 tuổi) và ra lệnh cho mẹ dẫn tôi đi đâu thì đi, đừng về nhà
nữa, đừng đến đây nữa. Mẹ tôi miễn cưỡng gởi lại thằng em tôi cho
bà nội, nhưng nó khóc la, không chịu rời mẹ tôi. Chú Tư táng nó
một bạt tai đến sặc máu mũi, chửi tới ba đời nhà nó. Mẹ tôi không
cho đánh nó nữa bằng cách ôm nó vào lòng mẹ. Chú Tư trút giận lên
mẹ tôi còn tàn nhẫn hơn cha tôi. Chú đánh mẹ tôi như đánh chó. Đá
lăn lông lốc trên sân... Tôi không còn khóc la nổi nữa, chỉ đứng
há hốc miệng ra nhìn. Thằng em tôi thôi khóc, máu mũi nó chảy
xuống đỏ cả ngực áo nó lẫn áo tôi, nó vùng ra khỏi tay tôi đang
ôm nó trong lo sợ, nó dõng dạc chỉ mặt chú Tư: “Đụ má mày chú
Tư”.
Ông cho
nó một đá văng ra ngõ, nó giẫy đành đạch như con cá lóc bị đập
đầu. Mẹ tôi bò ra ngõ, lôi thằng em tôi và gọi tôi. Chạy. Con chó
chạy theo...
Đêm đó, chúng tôi ngủ ngoài sạp chợ Chồm hổm là ngôi chợ tự phát,
mọc lên sau “giải phóng”. Bờ sông bãi rác trước đây nhưng có lợi
thế trên bờ dưới bến, thuận tiện cho việc mua bán của ghe thương
hồ. Đêm xuống, mấy chiếc ghe thương hồ leo lét đèn bão và tiếng
hát lời ca vang lên cùng tiếng đàn vọng cổ. Tôi quá lạnh, sợ và
đói nên không ngủ được, rúc vô mẹ tôi thì thằng em không nhường
hơi ấm, nó xô tôi ra. Tôi ôm con chó, khóc thút thít... rồi lịm
đi.
Khuya, mấy
người Phường đội, du kích, công an... đi bắt vượt biên làm náo
động mấy chiếc ghe thương hồ đã yên giấc. Họ bắt chúng tôi chung
với những người lạ, những người vượt biên lớ ngớ không biết chạy
đi đâu. Tất cả những người bị bắt, được giải về Công an Phường.
Sáng hôm sau, công an nhận mặt ba mẹ con tôi là người địa phương
nên thả ra chứ không đưa đi trại giam.
Mẹ dẫn chị em tôi xuống cuối chợ, mua
cho mỗi đứa một trái bắp luộc và dặn ngồi ngoan ở đó để mẹ đi xin
việc làm. Con chó cũng kêu đói ăng ẳng đòi phần, mẹ nhường cho nó
củ khoai lang luộc là phần của mẹ. Bây giờ, tôi mới thấy trên đầu
mẹ tôi được buộc lại như đeo tang, máu khô còn đầy ở mang tai và
gương mặt tím bầm nhiều chỗ. Chúng tôi ăn xong, ngồi ngoan một
chỗ để mẹ đi gánh nước và rửa tô cho hàng hủ tiếu. Con chó lẽo
đẽo theo mẹ đi gánh nước...
Từ đó, chúng tôi sống ngoài chợ. Tối
ngủ coi đồ cho hàng hủ tiếu khỏi dọn bàn ghế về nhà như trước
đây. Gia đình tôi cũng quen được ông bà Mười làm nghề thương hồ.
Ông bà lên hàng là cả ghe cá mắm tới rau trái, dừa khô, khoai
lang, bí đỏ... Họ mua bán trao đổi không hết hàng thì để lại cho
mẹ tôi bán chợ chiều vì công việc phụ hàng hủ tiếu chỉ bán chợ
sáng. Những ngày tháng ấy, tôi thấy mẹ tôi cười khi chợ vắng tanh
về tối và thằng em tôi chơi với con chó nhiều hơn chơi với chị.
Chuyện ba mẹ con tôi sống ở ngoài chợ
được đồn đến tai cha tôi và chú Tư cũng đồng nghĩa với hết yên ổn
từ hôm bà nội đi chợ. Bà ngồi ăn bún thịt nướng chả giò thơm
lừng. Tôi không giữ nổi thằng em như lời mẹ tôi dặn dò, nó vùng
khỏi tay tôi để chạy đến bà nội xin ăn vì thịt nướng thơm lắm! Bà
nội hất nguyên tô bún vô mặt nó. Bảo lượm lấy mà ăn! Chửi ba đời
chín kiếp nhà nó. Nó không lượm thịt nướng chả giò dưới đất mà
chỉ thẳng vào mặt bà nội: “Đụ má mày bà nội”.
Người dưng cười hả hê bao nhiêu thì mẹ
tôi bị chú Tư ra chợ đánh cho một trận còn thê thảm hơn thế.
Chiều tối hôm sau, tới phiên cha tôi ghé chợ, đánh cho mẹ tôi một
trận nữa, đánh tới gẫy xương sườn. Từ đó về sau, thằng em tôi chỉ
nói một câu: “Đụ má”. Ai hỏi nó “Ăn hôn”, “Chơi hôn”, “Ngủ hôn”,
“Đi đái hôn”... nó chỉ trả lời...! Người kẻ chợ gọi nó là “thằng
Đụ má”.
Chị em
tôi sống nhờ cơm ông Mười nấu dưới ghe, bà Mười đưa mẹ tôi đi nhà
thương chưa về. Dì Hường (cháu gọi bà hủ tiếu bằng dì, là người
làm công việc gánh nước, rửa tô với mẹ tôi) mua cho chúng tôi hai
bộ đồ mới.. là tất cả những gì tôi còn nhớ được tới hôm nay.
Ông ngoại (ông Mười) bỏ chị em tôi
xuống ghe, con chó đã bị người ta bắt trộm làm thịt hôm mẹ tôi đi
nhà thương. Chúng tôi khóc con chó quá mức nên quên khóc cho mẹ
dở sống dở chết nơi đâu chúng tôi cũng không biết! Ông ngoại đưa
chị em tôi về nhà ngoại ở dưới quê. Bà ngoại ở bệnh viện chờ bác
sĩ “hàn xương sườn” cho mẹ tôi. Ông ngoại nói với chị em tôi như
thế. Chúng tôi được ở nhà ngoại với dì Hai, (dì bị té sông hồi
nhỏ nên tâm thần lãng đãng). Nhưng dì biết nấu cơm cho chúng tôi
ăn, dì biết ca vọng cổ, hay lắm! Không nhớ bao lâu thì mẹ tôi
cũng được ông bà ngoại đưa về quê. Từ đó, mẹ tôi làm người đi
trao đổi hàng hóa từ thành phố về, thu mua đặc sản trong xóm, sắp
sẵn cho ông bà ngoại về tới là lên hàng và xuống hàng, đi liền.
Ông bà ngoại không phải ở lại xóm một hai hôm để mua bán, trao
đổi hàng hóa với xóm làng vì đã có mẹ tôi lo.
Thương vụ của ông bà ngoại phát đạt nhờ
có mẹ tiếp sức. Ông bà ngoại tôi tin là mẹ tôi đã đem may mắn đến
gia đình có bốn người con gái nên làm ăn ạch đụi hoài! Từ hồi có
mẹ tôi thì gia đình ông bà ngoại đã đủ Ngũ Long Công Chúa nên ai
cũng ăn nên làm ra. Trừ dì Hai bị tâm thần nên không lập gia
đình, còn lại các dì kế đều tự nhiên làm ăn được nên khá lên. Cả
nhà ngoại thương mến mẹ con tôi đến độ ông bà ngoại muốn gả chồng
cho mẹ tôi với người đàn ông trong xóm, cũng làm nghề thương hồ
và vợ chết khi sanh đứa con thứ hai cho ông. Mẹ tôi chưa đồng ý
chuyện cưới hỏi thì chú Tư đã xuống tới nơi, tố cáo với công an
địa phương là ông bà ngoại tổ chức vượt biên nên mẹ con tôi bị
bắt lần nữa. Ông bà ngoại sạt nghiệp lần đó, phương tiện làm ăn
chỉ là cái ghe thương hồ mà bị cấm hoạt động vì tội đưa người,
chứa người vượt biên thì còn gì để sống! Ngoại bán ghe để chạy
chọt cho họ thả chúng tôi ra.
Dì dượng ba của tôi đã âm thầm chuẩn bị
cho chúng tôi ra khỏi trại giam với lệnh phải trở về Sài gòn
trong ngày. Nhưng dì dượng đón chúng tôi khi xe đò rời Vĩnh Long
không xa và đưa chúng tôi đi trốn trong gò mả – ngoài đồng hoang
cả tuần tới hôm đi vượt biên.
2.
Chúng tôi đến đảo như mọi người vượt
biên khác và khác người là ba mẹ con thui thủi, không biết có
được đi định cư ở nước thứ ba vì hoàn toàn không có thân nhân ở
ngoại quốc. Cơ may bất ngờ là có một gia đình vượt biên như chúng
tôi, họ có thơ của thân nhân ở Pháp gởi tới trại. Trong thơ có
mấy câu tiếng Pháp do đứa cháu nội của ông già vượt biên viết hỏi
thăm ông nội, nhưng ông không biết đọc tiếng Pháp. Mẹ tôi dịch
được sang tiếng Việt cho ông hiểu. Nhờ đó, mẹ tôi quen chú Thành.
Chú giỏi tiếng Anh và làm việc cho ban lãnh đạo trại để giúp đỡ
đồng bào tỵ nạn, chứ chú đi Mỹ lúc nào cũng được vì gia đình chú
đã sang Mỹ từ lâu.
Ngày tháng, những gia đình vượt biên
cùng chuyến đã đi định cư, chỉ còn gia đình tôi ở miết vì không
người bảo lãnh đi nước thứ ba; cũng không phái đoàn nào nhận
chúng tôi đi bất cứ đâu để khỏi bị cưỡng bức hồi hương. Chú Thành
quyết định làm đám cưới với mẹ tôi ngay trên trại tỵ nạn. Đám
cưới được Ban lãnh đạo trại tổ chức cho và có mấy phái đoàn ngoại
quốc dự đám cưới nữa nên gia đình tôi đi Mỹ với chú Thành, khá dễ
dàng.
Tôi
không tưởng tượng được sự giàu sang của gia đình chú Thành, khi
tôi tới Mỹ. Nhưng tôi không được sống trong căn nhà lộng lẫy, gọi
bà cụ hiền khô là bà nội. Chúng tôi sống riêng ở một căn
apartment. Cuối tuần, chú Thành ghé thăm.
Mẹ tôi, một lần nữa lăn xả vào cuộc
sống mới vì hai đứa con nhỏ. Ai cũng khen mẹ tôi giỏi giang vì
tới Mỹ mấy ngày thôi đã lội tuyết đi làm cho tiệm fast food Mỹ.
Đêm, ngồi may tới khuya lơ để kiếm tiền. Từ khi mua được chiếc xe
hơi cũ, cuối tuần nào mẹ cũng chở chúng tôi đến thăm bà... với
quà bánh cho bà rất hậu.
Cuộc sống chúng tôi ổn định dần thì bà
bị trợt té gẫy chân, phải nằm bệnh viện lâu vì dập lá lách nữa.
Mẹ chú Thành có bốn người con trai thì ba người con dâu trước đây
không công nhận mẹ tôi là em dâu út, nhưng bây giờ cần người vô
bệnh viện với mẹ chồng thì gọi vợ Út Thành! (Tôi đã bắt đầu biết
suy nghĩ về gia cảnh của mình và hoàn cảnh của mẹ vì tôi đến Mỹ
năm 10 tuổi, bây giờ đã sắp 13).
Mẹ tôi nói với chú Thành là mẹ xin nghỉ
vacation, sau đó nghỉ không ăn lương để có thể chăm sóc cho bà.
Nhưng mẹ nói với tôi:
– Chú Thành đã cứu chúng ta, bây giờ mẹ
phải giúp chú ấy.
Mẹ bị buộc thôi việc vì nghỉ nhiều quá,
nên không có tiền lương nữa. Cũng không có thời giờ may để kiếm
tiền trả tiền thuê apartment... Mẹ dạy tôi may và tôi đã ngủ gục
trên bàn may nhiều lần để có tiền trả apartment, năm tôi 13 tuổi.
Khi bà được xuất viện về nhà, mẹ tôi
vẫn chăm sóc bà thêm mấy tháng. Khi bà tự nói, bà đã có thể tự
túc một mình, mẹ tôi nên đi làm lại để nuôi con. Bà cho mẹ tôi
một số tiền lớn lắm, có thể mua được căn nhà để ở. Nhưng mẹ tôi
không lấy và trình ra giấy ly dị với chú Thành mà mẹ đã ký sẵn để
trả lại tự do cho chú Thành như thoả thuận của mẹ với chú Thành
từ hồi làm đám cưới bất đắc dĩ bên đảo.
Tôi với thằng em phản đối vì chúng tôi
đã thân quen với chú Thành như con với cha, dù chú không ăn ở với
mẹ tôi. Tôi nhớ lần cuối đến thăm bà vào ngày cuối tuần vì mẹ tôi
quyết định dời đi tiểu bang khác sinh sống. Mẹ không giải thích
lý do nhưng tôi lờ mờ hiểu là mẹ muốn xa bà và chú Thành.
Hôm đó thật buồn, bà ngồi trên ghế bành
và khóc. Cuối cùng, bà tuốt cái nhẫn trên tay bà mà bà nói là quà
cưới của bà. Bà trịnh trọng trao cho mẹ tôi:
– Bác không có con gái để trao lại cái
nhẫn này nên bác cho cháu. Về chuyện của cháu với thằng Thành, nó
là người tín nghĩa trong việc giúp cháu qua được Mỹ, hai đứa phải
mang danh nghĩa vợ chồng trên giấy tờ mà nó thì sống độc thân mấy
năm nay. Nó chờ cháu đó! Cháu cứ nhận cái nhẫn gia bảo này như
cháu là người xứng đáng được bác trao lại kỷ vật của gia đình.
Nếu cháu nhận thêm ý nghĩa thứ hai, là cái nhẫn đính hôn cho con
trai của bác thì bác cảm ơn cháu thật nhiều.
Mẹ tôi khóc, chị em tôi cũng khóc, mẹ
đưa tay cho bà đeo nhẫn vào.
Chúng tôi trở về apartment của chúng
tôi. Tôi bắt đầu suy nghĩ về tình cảm của người lớn! Tôi ước gì
chú Thành đến tặng hoa cho mẹ tôi vì nhẫn đính hôn thì bà đã trao
rồi. Tôi hỏi thằng em:
– Mày có muốn chú Thành làm ba của mình
hôn?
Nó trả
lời tôi bằng cái ôm chị hai thật lâu. (Nó là người khô khan tình
cảm tới lạnh lùng, nó không thích nói và chỉ thích đánh lộn.)
Không ngờ, mẹ tôi khóc sau lưng chúng tôi, hôm đó là thứ bảy.
Sáng hôm sau, chú Thành ghé apartment
chở chúng tôi đi chơi như chú hứa. Hai chị em tôi xin qua cây
xăng sát bên apartment mua kẹo để mang theo ăn. Mẹ tôi đang chuẩn
bị đi làm, mẹ tôi đi làm liên tu bất tận... Lần đầu tiên, chúng
tôi nói dối mẹ với chú Thành và chúng tôi băng qua chợ Mỹ, mua
một bó hoa hồng rẻ nhất (loại người ta đã bỏ ra ngoài tủ lạnh
chưng hoa với bảng giá 50% off, vì tiền chúng tôi có tới đó
thôi)! Chúng tôi mang về, dúi vô tay chú Thành và hai đứa đứng
yên. Chú nhìn chúng tôi thật lâu sau lớp kính cận rất dày của
chú... chỉ có nước mắt chảy ra. Cuối cùng, chú cũng tiến đến mẹ
tôi để trao bó hoa, chú trao luôn ra cái hộp bé xíu mà xinh xắn
đến tuyệt vời...
Ba mẹ tôi đã ôm nhau thật lâu – trước
mặt chị em tôi – để vài năm sau – tôi có thêm đứa em cùng mẹ khác
cha. Lần đầu tiên từ khi đến Mỹ, mẹ tôi bỏ việc không làm để đi
chơi. Ngày chủ nhật đầu tiên trong đời chị em tôi được đi chơi
với cha mẹ. Chiều về, ăn nhà hàng sang trọng để hai chị em tranh
nhau cái toilet mà ói vì đứa nào cũng không quen với cao lương mỹ
vị.
3. Hai năm
trước, tôi ghé thăm ba mẹ nhằm hôm ba đi câu với thằng em khác
cha của tôi. Mẹ đưa tôi lá thơ viết tay có dấu Bưu điện Sài gòn
chứ không phải Vĩnh Long. Tôi bình tĩnh theo phản xạ của người
trưởng thành dị biệt. Tôi ngồi nghĩ về ngôi chợ Chồm hổm ở bờ
sông Dương Bá Trạc...
Nhớ 3 lần về Việt Nam, gia đình tôi đều
thuê xe về thẳng Vĩnh Long. Lần đầu về thăm ông bà ngoại và các
dì; lần sau về xây mộ cho ông ngoại; lần cuối về xây mộ bà ngoại.
Mẹ tôi về một mình trong lần thứ tư để chôn cất dì Hai đã mãn
phần vì chứng tâm thần từ nhỏ của dì nên dì kém thọ. Không biết
lần về một mình, mẹ tôi có ghé thăm bên nội? Tôi không nghĩ mẹ
tôi còn ghé bờ sông Dương Bá Trạc làm gì! Nhưng bằng cách nào mà
bên nội biết được địa chỉ của mẹ? Tôi không hỏi, cũng không đọc
thơ dù phong bì đã xé. Tôi ngồi lặng thinh, ký ức trở về năm lên
6 tuổi của mình với lòng oán hận tới ứa nước mắt. Mẹ tôi nói:
– Vì lá thơ có liên quan tới con nên mẹ
phải đưa cho con.
Tôi ngước lên nhìn mái tóc bạc sớm của
mẹ, đôi vai gầy và đôi mắt sâu... làm tôi không nói được lời oán
trách nào hết! Mẹ ngồi xuống bên tôi như đêm đầu ngủ chợ, vết
thương trên mang tai mẹ chỉ còn vết sẹo lu mờ, máu khô nâu đã
sạch nhờ ơn chú Thành chùi rửa! Không biết mẹ có biết vết thương
trong lòng tôi với em tôi không bao giờ khép miệng!
Một tuần trôi qua, tôi mất ngủ hoàn
toàn vì tò mò muốn đọc lá thơ nhưng lại tự lòng không cho mình
đọc. Tôi không muốn xát muối lên vết sẹo còn mưng mủ trong lòng
em tôi. Tôi không muốn làm tổn thương chú Thành khi ơn chú chưa
trả mảy may! Vì ở vai trò người cha kế, chú xử tệ với chị em tôi
thì đã sao? Ngược lại, chú thương tôi bằng vất vả, hy sinh, chia
sẻ... cho đứa con gái nhiều mặc cảm về gia đình và xuất xứ bản
thân. Chú khổ sở với tánh tình hung bạo, hận thù tất cả, không
tin ai ở đời... của thằng em bất trị của tôi. Không ít lần nó làm
cho chú suýt vô tù, mất việc, tiền bạc tiêu tan trong những lần
phải bồi thường cho những người mà nó gây hại cho người ta. (Nó
đánh người vô cớ khi chợt nhớ về thù hận đâu đâu trong tuổi thơ
của nó.) Nó quên tiếng Việt đến 99%! Phần trăm còn lại là câu “Đụ
má”. Mỗi lần nhìn mẹ tôi cắn răng chịu đựng những cơn đau nội
tạng bị tổn thương khi trở trời, nó chửi thề tiếng Việt ỏm tỏi,
mắt long lên giận dữ như con chó điên! Những lúc ấy, tôi an ủi,
vỗ về nó để nó đừng ra đường đánh đại bất cứ ai mà nó thấy mặt.
Chú Thành lặng lẽ săn sóc mẹ tôi hết khăn nóng tới khăn lạnh. Chú
nói chơi mà tôi khóc thiệt:
– Lau mòn da cũng không hết cái đau bên
trong! Tụi con ngoan ngoãn nghe lời, cố gắng vươn lên, mới là cái
khăn lông lau được nhức nhối trong lòng của mẹ con. Hai đứa rán
lên...
Tôi đến
nhà em tôi sau cú điện thoại nó gọi, tôi đoán được việc nó đã thu
xếp trước với anh rể vì chồng tôi ít khi để tôi đi đâu môt mình
trong ngày nghỉ cuối tuần. Tôi đến một mình và người vợ mới cưới
của nó cũng vắng nhà vô cớ để chỉ có hai chị em tôi gặp nhau. Tôi
ngồi chưa nóng ghế thì ba tôi đến, chú Thành ở trại tỵ nạn năm
xưa, nay đã già, qua hai tròng kính cận thật dày, đôi mắt nhân từ
độ lượng của ông vẫn như xưa, người đàn ông khuôn mẫu trong quyết
định của tôi khi lập gia đình vì chồng tôi giống chú đến 90%,
mười phần trăm còn lại là khoảng cách tuổi tác của hai người.
Ba chúng tôi không vào chuyện được khi
chai rượu vang đã gần cạn. Chú Thành hỏi tôi:
– Con đã đọc lá thơ của ba con chưa?
Tôi trả lời:
–
Dạ chưa!
Chú
nói:
– Không
cần đọc nữa! Vì mẹ con đã đưa chú đọc. Chính chú nói: Cứ đưa cho
con để con quyết định. Nội dung bức thơ do cha con viết, chỉ một
yêu cầu: Con bảo lãnh ông ấy sang Mỹ vì thằng Thắng (em tôi)
không có giấy khai sanh. Con thì có. Cha con cũng không có giấy
kết hôn với mẹ con, nên chỉ mình con có tư cách bảo lãnh ông ấy
sang Mỹ. Mẹ các con nhờ chú suy nghĩ giúp vì bà không lường được
hậu quả chuyện này. Với lòng tin mà mẹ các con đã gởi gắm nơi
chú! Chú tin mình có thể vượt qua những khó khăn của gia đình
chú. Nhưng, hai con đã trưởng thành nhiều, chú muốn chính chúng
con giải quyết việc riêng của gia đình riêng của các con...
Thằng em tôi nổi giận, mắt nó long lên!
Chửi thề văng tục... nó thề giết cha tôi, giết hết bên nội... rồi
tới đâu thì tới nếu tôi bảo lãnh ông ấy sang đây.
Tôi biết không bàn tính được gì với em
tôi, tôi với chú Thành và chồng tôi lại ngồi xuống với nhau. Hai
người đàn ông đã gầy dựng lại cuộc đời tôi từ đổ nát... cũng
không ai cho tôi được quyết định cuối cùng vì mỗi mình tôi có
liên hệ pháp luật với quá khứ! Tôi có tờ khai sanh oan nghiệt.
4. Tôi đi gặp mẹ để đi đến quyết định
cuối cùng cho chuyện có bảo lãnh cha tôi hay không? Mẹ tôi biết
trước cuộc gặp này nên có lẽ mẹ đã chuẩn bị chu đáo cho một lần
nói hết với con. Tôi như người bạn của mẹ tôi nơi một góc nhà
hàng xa lạ, hai người phụ nữ Việt Nam lạc lõng trong cái nhà hàng
Mỹ như đôi bạn dạt trôi đến nơi này từ địa ngục trần gian. Mẹ tôi
ăn mặc đẹp, nét đẹp trời cho... rồi tiếc, nên ông ấy ganh tỵ với
mẹ tôi hoài. Lâu lắm rồi, tôi mới nhìn kỹ mẹ mình bằng con mắt
khách quan để hiểu thêm vì sao mẹ khổ! Người đàn bà nào không ham
nhan sắc! Và đó là nguồn gốc của bất hạnh bản thân cùng những
liên lụy đến đời sau... những nghĩ suy miên man trong đầu tôi
không trốn chạy được ánh mắt mệt mỏi của mẹ mình. Mẹ tôi dở lại
từng trang đời cho đứa con nghe như nước đã qua cầu! Cầu bao
nhiêu nhịp lòng sầu bấy nhiêu...
Mẹ tôi nói:
– ... Mẹ không trả lời những câu hỏi
của con, khi con còn quá nhỏ. Đến khi nói được với con thì tự con
thấy không nên hỏi mẹ nữa! Cảm ơn con đã xử sự với mẹ bằng sự
chia sẻ thầm lặng đó! Nhưng hôm nay, mẹ nói hết một lần với con
về xuất xứ của con và cả xuất xứ của mẹ nữa, khi định mệnh đã
không buông tha mình...
Biến cố 1975 đã liệng mẹ ra khỏi Viện
mồ côi với tuổi đời 16, thân xác trưởng thành hơn đồng lứa, có lẽ
hai người sinh ra mẹ cũng khá đẹp đôi. Mẹ không biết đi về đâu,
làm gì để sống, khi trong tay chỉ có vốn tiếng Pháp ở trình độ
biết đọc, biết viết mà các dì Phước đã dạy cho mẹ; một chút tài
may vá, thêu thùa học được trong Viện mồ côi. Mẹ với người bạn
thân trong Viện đã đói khát nhiều ngày mới xin được việc ở đợ cho
một gia đình mà trước mặt tiền đường là tiệm may. Người bạn của
mẹ phải ở nhà dưới lo cơm nước, giặt giũ. Mẹ biết cắt may nên
được bà chủ may mặc cho dễ coi để đứng tiệm ở nhà trên, dù thời
ấy cũng chẳng ai may mặc gì nhiều. Tưởng cuộc đời có ăn có mặc
được yên thân, ai dè ông bà chủ bảo coi nhà cho gia đình họ đi
chơi Đà Lạt dăm hôm. Họ không trở về nữa. Họ đã vượt biên. Công
an đến niêm phong nhà cửa, tịch thu tài sản. Mẹ với người bạn bị
bắt đưa về Phường để điều tra! Thuở ấy, hai đứa trẻ mồ côi đâu
biết được cạm bẫy ngoài đời. Đó chỉ là cái cớ cho họ đưa hai đứa
con gái mồ côi ngờ nghệch về hành lạc, chứ ai đi bắt đám con ở
làm gì! Cả hai đứa bị hãm hiếp tập thể trên tầng ba của ngôi nhà
lầu, bất kể ngày đêm... Hai chị em mẹ quyết định tự tử. Cô chị
nhảy lầu trong hoàn cảnh không mảnh vải che thân. Mẹ nhảy theo
không thoát vì bị níu lại. Người chị chết thảm trên lề đường đêm
khuya, chắc cũng không được chôn cất gì đâu. Sáng hôm sau, họ
giải mẹ lên công an quận để xóa dấu cái chết đêm qua của bạn mẹ.
Từ quận giải đi tiếp đến đâu thì mẹ không biết! Chỉ biết trên xe
có chú Tư của con. Dọc đường, đồng bọn của chú Tư giải cứu, cướp
tù. Họ bắn nhau với công an. Trong hỗn loạn tiếng súng, chú Tư
nói mẹ chạy theo chú chứ ở lại thì họ xử bắn mẹ. Mẹ chạy theo chú
Tư để ân hận suốt đời.
Chú đưa mẹ về nhà bà nội con, rồi đi
biến đến mấy tháng. Mẹ không có khái niệm về một gia đình vì nhỏ
lớn ở trong Viện mồ côi. Mẹ chỉ biết so sánh gia đình bà nội với
gia đình tiệm may và thấy khác xa, thế thôi. (Con cứ nhớ lại năm
con 16 tuổi và sự khờ khạo của mình thì mẹ khờ gấp đôi con vì mẹ
ở trong Viện mồ côi nhỏ lớn. Không biết gì về đời sống bên
ngoài). Có bà hàng xóm với bà nội, xúi mẹ trốn đi vì bà nội là
người hành nghề chứa chấp mãi dâm đó. Nhưng mẹ biết trốn đi đâu,
khi miếng băng vệ sinh, mẹ cũng phải xin bà nội vì mẹ đâu có đồng
nào trong túi để tự mua.
Mẹ ở nhà nội như con ở, trong tủi nhục
cũng có cái mừng là mình không bị có thai với đám công an. Mẹ bắt
đầu hiểu biết về chuyện đó từ bà hàng xóm của bà nội. Mấy dì
Phước chỉ dạy mẹ phải giữ gìn vệ sinh thật kỹ, hàng tháng thôi.
Các dì không dạy chuyện hơn. Nhưng ông nội con đã hãm hiếp mẹ đến
có thai. Lần ông đang hãm hiếp mẹ thì chú Tư đột ngột về nhà, vô
phòng. Chú rút dao găm và đâm chết ông nội ngay trên người mẹ.
Chú kéo xác ông xuống gầm giường vì đang trưa. Đến đêm, chú Tư
với bác Hai của con đưa xác đi đâu thì mẹ không biết. Mẹ lên cơn
sốt vì khủng hoảng tinh thần triền miên mấy ngày. Bà nội cho uống
thuốc bắc, đối xử tử tế mà mẹ không biết. Khi biết thì đã thành
kẻ giết người vì thuốc đó là thuốc trục thai. Mẹ nhớ suốt đời chỗ
bờ sông mà bà nội đã ném cái thai xuống dòng nước trôi đi...
Sau đó, mẹ lại có thai vì chú Tư hãm
hiếp. Tiếp theo, chú Tư đi tù bất ngờ vì chú là người đâm thuê
chém mướn. Tới bác Hai ra tù, (anh em họ vào tù ra khám như đi
chợ) Bác Hai về nhà cũng bất thường như chú Tư, bác Hai cũng hãm
hiếp mẹ như chú Tư. Mẹ biết mình đã có thai với chú Tư nhưng
không nói ra vì sợ bà nội cho uống thuốc nữa. Mẹ không muốn giết
người, con hiểu không! Khi bụng mẹ lớn rồi, mà vẫn chưa có tiền
và có cách để trốn đi thì bà nội bắt uống thuốc phá thai như lần
trước. Mẹ đã biết gian ngoa, nói dối từ cuộc sống dạy mình. Mẹ
cầu cạnh bác Hai che chở và nói dối với bác: Cái thai trong bụng
mẹ là con của bác Hai. “Con ra đời như thế đó!”
(Tôi điếng người khi hình dung ra gương
mặt chú Tư... lờ mờ trong trí nhớ! Gương mặt mà những khi thằng
Thắng ngủ khò trên sofa, tôi nhìn mặt nó rồi nổi da gà vì vừa
thương vừa giận mà tôi không bao giờ hiểu được vì sao? Tôi giải
thích cho mình không thỏa đáng khi nghĩ thương vì là chị em; giận
vì nó gieo tai họa cho gia đình nghiêm trọng. Nó không biết
thương chú Thành chút nào hết! Tôi giận nó để rồi thương trong
vòng lẩn quẩn. Sao nó lại giống người đàn ông mà tôi ghê sợ nhất
là chú Tư! Cha tôi là chú Tư. Còn gì cay đắng hơn trong đời tôi)!
Qua cơn xúc động nhất thời, tôi không
muốn nghe thêm về gia đình bên nội tôi nữa! Nhưng tôi nghe vì
thương mẹ tôi. Tôi hiểu lòng người đàn bà được nói ra những khổ
tâm sẽ dễ chịu lắm! Nên mẹ tôi nói tiếp:
– Bác Hai thích mẹ thì đúng hơn thương.
Những người nhà nội mà biết thương ai! Mẹ cũng không hiểu vì sao
họ thích khi trong tay họ biết bao nhiêu cô gái trẻ. Bác Hai làm
khai sanh cho con để phòng khi chú Tư ra tù thì không tranh chấp
nữa vì mẹ đã như là vợ bác Hai. Bác đưa mẹ qua sống ở căn nhà mà
mình đã từ đó ra đi...
Khi chú Tư ra tù (vượt ngục hay được
thả thì mẹ không biết), chú Tư lầm lì tới đáng sợ! Lui tới nhà
mình khi bác Hai vắng nhà và hãm hiếp mẹ. Sự chống đối của mẹ
hoàn toàn không có vì chỉ thiệt thân với những trận đòn không tả
nổi. Mẹ thật sự không biết thằng Thắng là con bác Hai hay con chú
Tư. Chỉ sau này, căn cứ vô tính tình của nó thì mẹ đoán nó là con
chú Tư. Phần bác Hai con, là người nghiện rượu, xì–ke ma túy, nên
mẹ càng tin là thằng Thắng con chú Tư. Mẹ đối phó với hoàn cảnh
mình là gian ngoa, nói dối... với chú Tư để bảo vệ cái thai thằng
Thắng vì mẹ không muốn giết người – dù mới là phôi thai. Trong
hoàn cảnh của mẹ lúc ấy không có chọn lựa!
Chú Tư đánh bác Hai suýt chết vì bác
Hai cướp mẹ trên tay chú Tư, bác Hai trở mặt tố cáo chú Tư giết
ông nội tại nhà. (Sau này mẹ biết ra, ông nội cũng không phải là
chồng bà nội. Ông có gia đình và chỉ lui tới với bà nội theo lối
già nhân ngãi non vợ chồng. Ông là cán bộ, đã che chở cho bà nội
làm ăn phi pháp. Nên chính bà nội cũng nổi ghen với mẹ vì bị ông
bỏ rơi). Trong tình thế gia đình tranh giành bát nháo đó, họ thi
nhau trút giận lên mẹ là vậy! Mẹ hiểu chú Tư có tình cảm với mẹ
hơn nhưng kẹt người anh tán tận, người mẹ bất nhân. Mẹ không muốn
chú Tư giết bác Hai vì mình – dù họ tàn ác như nhau, nhưng là
chuyện của họ! Không nên xui anh em người ta giết nhau để mình
mang tội. Người ta có tàn nhẫn với mình thì để bề trên xét xử.
Sau khi thằng Thắng ra đời, bác Hai
không làm khai sanh cho nó vì nghe lời người ngoài, bà nội... rồi
tin nó là con chú Tư. Bác trở nên tàn độc với mẹ hơn, những lúc
không tiền uống rượu, chích xì–ke, bác Hai bắt mẹ tiếp khách tại
nhà để ông lấy tiền uống rượu và chích. Giai đoạn này thì mẹ đã
học được cách tránh thai từ những cô gái trong nhà chứa của bà
nội. Chú Tư thù bác Hai về việc bắt mẹ tiếp khách, điều đó thì mẹ
biết! Nhưng chú bị người ta đâm lòi ruột trong những tranh chấp
ngoài đường, cũng là việc làm ăn của chú. Chú về nhà nội nằm
dưỡng thương mấy tháng. Giai đoạn đó, mẹ chỉ muốn tự tử vì tủi
nhục. Nhưng hai con mình ai nuôi? Mẹ rối trí dữ lắm! Mẹ nhớ những
người khách hiền lành, họ thật sự có nhu cầu giải quyết sinh lý
đơn thuần. Họ thương cảm những cô gái điếm bằng những đồng tiền
dấm dúi cho riêng trong khi hành lạc vì họ dư biết số tiền trả
cho ông/bà tú thì bản thân người gái đĩ đâu có bao nhiêu, thậm
chí không được đồng nào trong những hoàn cảnh bị khống chế.
Mẹ chắt chiu tiền đó để chờ cơ hội dẫn
tụi con trốn đi nơi khác sống. Mẹ có mua cho chú Tư gói thuốc lá,
tô hủ tiếu... không phải vì tình cảm của mẹ với chú mà đơn giản –
chú là cha của tụi con. Mẹ phải có trách nhiệm với ông ấy cho tới
khi tụi con trưởng thành. Suy nghĩ của mẹ lúc ấy là như thế.
Khi chú bình phục lại thì nói mẹ dẫn
tụi con lên Long Khánh sinh sống. Chú sẽ giúp đỡ về tài chánh và
sẽ sinh sống với mẹ như vợ chồng. Nhưng mẹ tưởng tượng ra tương
lai của tụi con... thì trốn đi làm chi? Mẹ có mưu đồ trốn chạy
nhưng với hai con thôi. Đó là căn nguyên của những trận đòn tàn
tạ mà bác Hai với chú Tư đã trút lên mẹ.
“Chuyện người đàn bà son phấn xuất hiện
ở nhà mình để bắt đầu một cuộc ra đi của ba mẹ con mình, mẹ vẫn
tin là Ơn trên đã cho mình một lối thoát.”
Bên ngoài cửa kính của nhà hàng, lá thu
bay xào xạc về đâu, những chiếc lá tụ ở một góc parking thì mục
rữa theo thời gian. Tôi theo chiếc lá bay một mình trên parking
mênh mông, vô định! Không còn tập trung nổi để nghe mẹ tôi nói,
nhưng mẹ cứ nói như không còn cách nào dừng lại được!
– Từ khi ngủ chợ thì con biết rồi.
Những lần về Việt Nam thì con cũng đã có trí nhớ. Hôm nay, mẹ chỉ
nói về lần mẹ về một mình, sau khi xây mộ cho dì Hai, (là các dì
muốn mẹ về chơi chứ không ai cần tiền của mẹ). Lần đó, chú Thành
đã chuyển về cho dượng Ba hai chục ngàn đô la, nên khi mẹ về tới
là có hai chục ngàn và năm ngàn trong bóp tay của mẹ. Mẹ rời Vĩnh
Long với tiền bạc còn nguyên vì không dì nào cho mẹ chi trả gì
hết. Mẹ lên Sài Gòn với tâm nguyện thực hiện những điều mình đã
nghĩ trước đó. Mẹ tìm lại xóm xưa để thăm dì Hường, (Dì bây giờ
khổ lắm! Con cái cũng nghèo nên không nhờ được gì. Người chồng
thì y như bác Hai, xì–ke, nghiện rượu. Thiệt là khổ cho dì. Mẹ
cho dì mười ngàn đô la để sửa sang lại ngôi nhà đã mục nát tới
hết cỡ. Bỏ nhà bank cho dì mười ngàn đô la để dì có thể sống bằng
tiền lời từ nhà bank, chứ tuổi tác chưa già nhưng sức khoẻ yếu
kém của dì thì chắc chắn khổ tới chết. Mẹ có đến bờ sông để thắp
cây nhang xin lỗi người anh/chị của con, mẹ đã bỏ nó mấy chục năm
trời lạnh lẽo ngoài bờ sông – dù mới là phôi thai nhưng nó đã có
linh hồn.
Không ngờ dì Hường là người chị em mà Ơn trên đã ban cho mẹ. Dì
nghèo vậy mà cũng đã xin lễ cầu siêu cho nó, rước vong linh nó vô
Chùa để cầu siêu theo tín ngưỡng của dì. Mẹ nhớ hoài về hai bộ
quần áo mà dì đã mua cho tụi con – hôm tụi con theo ngoại về quê
– là tiền dành dụm của một đứa rửa tô ngoài chợ. Hôm mẹ xuất
viện, ông bà ngoại phải lén đưa mẹ xuống ghe (sợ gia đình nội
biết được thì không biết điều gì xảy ra cho mẹ). Vậy mà trước lúc
ông ngoại nhổ sào cho ghe đi, dì Hường có mặt kịp thời. Dì đặt
chồng tô đi thu gom từ những bạn hàng ở chợ xuống đất, dì xuống
ghe và ôm mẹ khóc hết nước mắt. Khi ghe đã đi rồi, mẹ mới biết
được dì đã lén đút hết cuộn tiền đi thu tiền hủ tiếu vô túi áo
mẹ. Nghe bà ngoại nói, dì bị đòn cũng tan xương nát thịt vì tội
ăn cắp số tiền đó. Bao năm nay, mẹ cứ tâm niệm là mẹ còn thiếu
người chị em một trận đòn, thiếu dì Hường cái tình nghĩa người
dưng mà hơn cả ruột thịt.
Mẹ không ghé thăm bà nội hay bác Hai,
vì chẳng có gì cho mẹ thăm. Nhưng dì Hường có cho mẹ hay là chú
Tư đang ở tù vì vận chuyển xì–ke ma túy, chờ ngày ra pháp trường
chứ không phải tù ngồi một thời gian như những lần trước. Mẹ suy
nghĩ thật kỹ và tự đi thăm ông. Lúc đối mặt nhau ở nhà tù, ông
nói ông đã cầu nguyện cho được gặp lại mẹ một lần. Và ông đã mãn
nguyện. Những câu xin lỗi của một người ăn năn thật hay giả thì
mẹ không quan tâm, mẹ chỉ nói với ông: “Tôi không đến đây để thăm
ông. Tôi đến đây chỉ để nói với ông: Những gì ông đã gây ra cho
tôi thì tôi bỏ qua! Những gì gọi là giúp đỡ tôi lúc khốn khổ thì
tôi trả ơn ông bằng cách cho ông biết: Hai đứa con tôi đã nên
người...” Mẹ không muốn nói thêm nên ra về...
Vì mẹ không yên tâm lắm về cuộc sống
của dì Hường nên đã để lại địa chỉ cho dì Hường liên lạc khi túng
thiếu và cần mẹ giúp đỡ. Theo dì Hường cho biết qua thơ thì người
chồng của dì đã ăn cướp hết tiền sửa nhà (nên nhà cũng chưa sửa
được gì mà tiền thì đã hết). Phần tiền trong nhà bank thì ông
không lấy ra được nhưng đánh đập dì mỗi tháng khi lấy ra tiền lời
nhưng không đưa cho ông. Tóm lại, mẹ cũng không giúp được dì
sướng hơn mà làm cho dì còn khổ hơn không có tiền. Thật là đau
khổ.
Dì cũng
cho mẹ biết: Sau lần mẹ vô thăm chú Tư trong tù thì ông đã tự tử
chứ không đợi ngày bị đưa ra pháp trường. Mẹ không ăn năn, hối
hận gì về việc đó! Biết ông là cha của tụi con, và mẹ nghĩ ông ấy
đã để lại một chút con người cho con cái không quá xấu hổ về
người cha – như thế cũng tốt!
Chuyện ông chồng của dì Hường đã đánh
cắp địa chỉ của mẹ để đưa cho bác Hai với thỏa thuận gì giữa họ
thì mẹ không biết. Mẹ chỉ trình bày hết sự thật cho con quyết
định có bảo lãnh bác Hai sang đây hay không. Cho con hiểu rõ hết
những điều mà bao năm qua mẹ đã không nói! Con thương hay oán
trách mẹ thì mẹ cam chịu khi không thể làm gì hơn được...
Vậy là bức màn u uất về bản thân tôi đã
được vén lên rõ ràng. Xét về mọi mặt... thì tôi không nên bảo
lãnh bác Hai sang đây làm gì! Nhưng lòng riêng tôi cứ muốn đưa
ông sang đây để ông tận mắt thấy được hạnh phúc mà mẹ tôi đang
có. Để ông thấm thía tội ác mà ông đã gieo cho người vô tội thì
về sau: Người hiền vẫn được trời thương, người ác vẫn bị trừng
phạt. Tôi muốn ông sống thật lâu để chết mòn trong bơ vơ và đau
khổ ở xứ người, hơn là để ông chết với một cơn say thuốc phiện
quá liều bằng cách gởi tiền về cho ông ăn hút ngập mặt; chết vô
thừa nhận như một kẻ vô lại.
Những thù oán xưa cũ đã cho tôi nghị
lực để hoàn thành ý nguyện từ một miếng giấy khai sanh – xét ra
chẳng có giá trị gì! Tờ khai sanh như tờ giấy lộn với cái mộc đỏ
của cấp phường, là đơn vị hành chánh cấp địa phương, vừa vô
nghĩa, vừa nực cười... Nhưng lòng riêng đã quyết nên tôi không
ngại tốn kém. Tôi thực hiện bằng được một cuộc trả thù xứng đáng
cho những gì mẹ con tôi đã chịu đựng từ mấy mươi năm qua và tới
hết đời chúng tôi không chừng!
Tánh tình em tôi có dịu lại từ khi Ơn
trên đã sai phái người vợ hiền ngoan của nó đến giúp nó làm lại
cuộc đời. Nhưng tôi biết trong lòng nó chẳng bao giờ có bình an –
nhất là những lúc mẹ tôi đau đớn với nội tạng hư hao vì bị hành
hạ xưa kia...
Ngày vợ chồng tôi ra phi trường đón bác Hai – với danh nghĩa cha
tôi, tôi thề không khoan nhượng trong cuộc trả thù này. Nhưng bề
trên không muốn cho tôi trở thành một người độc ác. Người đàn ông
răng hô, da trắng xanh đến bệnh hoạn, nói giọng Bắc đặc... thì
chắc chắn không phải bác Hai tôi vì gia đình nội tôi người miền
Nam. Tôi chưng hửng, không biết đối phó ra làm sao trong trường
hợp mà mình không lường trước được. May là chồng tôi tỉnh táo,
anh nói chuyện với tôi bằng tiếng Anh và dùng toàn tiếng lóng vì
không biết ông Bắc này có biết tiếng Anh không!
Chồng tôi đã bình tĩnh để suy xét:
– Ba em (bác Hai) đã khôn hơn em tưởng!
Ổng qua đây làm gì cho em trả thù! Ổng đã nhường chuyến xuất
ngoại này cho một tội phạm trong nước hay cán bộ bị truy nã vì lý
do gì đó... thì anh không cần biết! Bác Hai ôm một đống tiền, tha
hồ ăn hút ở Việt Nam, không sướng hơn sang đây cho em trả thù!
Ông này đủ tiền mua một chuyến xuất ngoại và qua mặt chính quyền
thì ông ấy là tay ghê gớm bên Việt Nam. Anh nghĩ, ra khỏi phi
trường, ông ta sẽ bỏ trốn mình. Chuyện còn lại là chúng ta đối
mặt với luật pháp ở đây là không khai báo khi đón nhận thân nhân
giả mạo...
–
Em hết biết tính sao rồi! Anh tính toán giùm em.
Chồng tôi cho biết:
– Nếu mình tố cáo ông ấy ngay trong phi
trường thì mình vô tội. Ông ấy không phải người tốt cho mình áy
náy hay hối hận gì đâu! Phần bác Hai của em bên Việt Nam cũng
không yên nếu ông này không trót lọt bên đây! Có thể tay chân ông
này sẽ đòi lại tiền bằng máu của bác Hai. Nhưng những người không
đáng giúp này thì rất cần trừng trị...
Tôi đồng ý với chồng tôi nên anh giả đi
vô toilet để gọi cảnh sát. Ông Bắc đúng như chồng tôi tiên đoán,
ông cũng giả đi toilet nhưng trốn chạy! Ông ta là tội phạm cỡ nào
bên Việt Nam thì tôi thật tình không biết!
Chồng tôi đã giúp tôi qua được những
rắc rối điên đầu với cảnh sát cho tới khi họ tóm được thủ phạm
của một vụ lừa đảo sở Di Trú Hoa kỳ.
Nhiều lần ngồi nhớ lại chuyện ân oán
này. Tôi hiểu biết hơn về lòng mình với những ân oán của con
người. Tôi nghĩ, hãy để bề trên phán quyết thay ta...
Phan
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by CATHY chuyển
Đăng ngày Thứ Bảy, September 3, 2022
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang